Truyện teen Hoàng Cung Dậy Sóng
Tác giả: Internet
Truyện teen Hoàng Cung Dậy Sóng
Tịch dương đỏ rực như lửa, khép nép chìm dần sau dãy núi. Bóng tối dang rộng vòng tay khổng lồ của mình, từ từ ôm trọn cả bầu trời. Vầng trăng bạc treo cao lơ lửng, điểm xuyến lung linh. Trời vẫn còn chút ánh sáng của ban ngày. Phải rồi, vì giờ chỉ mới là chiều tối.
Từng đoàn cung tì và thái giám bước nhanh về phía phòng của Dương phi, trên mặt thoáng nét buồn rười rượi. Ắt hẳn là phải có chuyện gì. Sứ giả bước đến, không nén được tò mò hỏi một cung tì:
- Có chuyện gì xảy ra mà các ngươi tư dung buồn bã vậy, lại còn kéo nhau đến phòng của Dương phi?
Ả cung tì hơi ái ngại:
- Sứ giả thứ tội... e rằng... chuyện này nô tì không thể nói.
Sứ giả bực mình lớn tiếng:
- Ta muốn ngươi nói thì ngươi phải nói! Có chuyện gì?
- Dạ... - Ả cung tì ấp úng.
- Nói nhanh lên!
- Dạ... Dương phi nương nương, người đã...
- Thế nào? - Sứ giả quát.
- Có lẽ vì nghe Ngô Tiệp dư nói mình có liên quan đến chuyện hạ độc sứ giả nên Dương phi đã thắt cổtự tử!
Sứ giả sửng sốt như không tin vào những gì mình nghe thấy:
- Ngươi nói cái gì? Tự tử?
- Dạ... dạ đúng! Lúc nãy người của phòng trang sức mang trâm cài đến cho Dương phi và... đã phát hiện nên...
Sứ giả có vẻ sợ sệt:
- Sao lại như vậy, chỉ vì chuyện đó mà Dương phi thắt cổ tự tử?
Tiếng ả cung tì lí nhí trong cổ họng:
- Nô tì không rõ.
Sứ giả hất hàm, gạt đi vẻ thàng thốt trên gương mặt:
- Thôi được rồi, ngươi đi đi, không có chuyện của ngươi nữa.
- Dạ vâng!
Người cung tì bước vào hàng ngũ, tiếp tục đi đến phòng của Dương phi. Sứ giả định bụng không đến nhưng dù sao ở trong hoàng cung của Lê triều, làm vậy cũng không phải phép. Ông mạnh dạn đến chia buồn cùng hoàng thượng. Ngài bế thái tử Lê Nghi Dân, khóe mắt lưng tròng nước. Quanh đó vẫn vang lên những tiếng khóc sụt sùi. Dương phi nằm im trên giường, dưới cổ vẫn còn một vết hằn đỏ.
- Quả thật tôi lấy làm thương tiếc cho Dương phi, đang sống yên lành lại phải... - Sứ giả lên tiếng, đưa mắt nhìn hoàng thượng.
Hoàng thượng buông tiếng thở dài, cố nén đau khổ:
- Mọi việc chưa hẳn đã đến đường cùng, sao nàng ấy lại làm chuyện dại dột như thế?
- Có lẽ Dương phi vì sợ tội mà tự sát. Người chết không thể sống lại, hoàng thượng đừng quá đau buồn!
- Lúc còn sống, Dương phi luôn thống lãnh hậu cung bằng tất cả trách nhiệm của mình, bây giờ cho dù có làm chuyện gì sai trái, trẫm cũng sẽ nương tình xử nhẹ, vậy mà... - Hoàng thượng ngậm ngùi, tình cảnh ấy thật khiến người ta chua xót.
- Số kiếp do trời định, Dương phi tạ
thế là do duyên hồng trần đã mãn, chúng ta cũng không thể nào cãi lại được.
Hoàng thượng quay sang sứ giả, ánh mắt đầy nghi hoặc:
- Sứ giả, ngài... đã bao giờ gặp ma chưa?
Lại gì nữa đây. Câu nói lạ lùng của hoàng thượng làm sứ giả khó hiểu.
- Hoàng thượng, ý ngài là...
- Nếu một người chết trong oan ức, chắc chắn sẽ quay về tìm kẻ gây ra nỗi oan của mình mà báo thù.
Sứ giả lấm lét:
- Ngài... nói chuyện này với bổn sứ để làm gì?
- Không có gì! Trẫm chỉ nói bâng quơ vậy thôi!
Sứ giả dù chẳng biết hàm ý bên trong đó là sao, nhưng ông cũng phần nào thấy bớt căng thẳng.
- Ngài định khi nào mai táng cho Dương phi?
- Có lẽ là ngày mai! - Hoàng thượng lay bước, giọng trầm xuống. - Cả nước sẽ phải chịu quốc tang trong ba ngày.
Sứ giả bước ra cửa, nhưng vẫn ngoái đầu nhìn lại một lần nữa. Các phi tần và cung tì quỳ bên giường Dương phi, khóc than ai oán. Thấy cảnh ấy, đột nhiên sứ giả ớn lạnh cả sống lưng, nhất là khi nhìn vào gương mặt đầy thống khổ của Dương phi, như muốn bày giải một điều gì.
Ông trở về phòng, đóng sầm cánh cửa lại ngồi khuỵu xuống. Chưa bao giờ ông có cảm giác này - một nỗi ám ảnh. Không phải vì ông thương hại Dương phi, mà vì ông sợ cái mà hoàng thượng nói - hồn ma. Chỉ mới trưa nay, khi Ngự thiện phòng sắp sửa bị hành quyết, ông chẳng có chút sợ sệt nào. Vậy mà giờ đây, khi một người đã thật sự lìa đời... Khuôn mặt Dương phi, nó như hiện ra lồ lộ trước mắt, với vết hằn đỏ dưới cổ, một vẻ mặt dữ tợn, cay đắng. Ông cố cắn răn lắc đầu qua lại để không nhớ, nhưng nó không buôn tha ông. Cực chẳng đã, ông phải mở cửa phòng để ra vườn thượng uyển giải khuây. Bước chân nặng nề, và bóng trăng mờ ảo trên mặt hồ. Một hạt nước nhỏ rơi xuống, mặt nước tụ lại như muốn nuốt chửng bóng trăng. Giờ này có lẽ mọi người đều đang ở phòng của Dương phi và một vài nơi lân cận đó. Đèn lồng được thắp sáng khắp nơi nhưng sứ giả vẫn có cảm giác rờn rợn. Đêm nay vắng hơn mọi đêm, chỉ nghe thấy tiếng lá rơi xào xạc. Đôi ba cấm vệ quân và thái giám bước trong im lặng, rồi cũng dần khuất sau bóng tối. Đi được một lúc, sứ giả mới nhận ra mình đã ra khỏi vườn thượng uyển tự lúc nào. Có thứ gì đó rơi trên vai ông. Sứ giả quay phắt người lại, thở phào nhẹ nhõm khi nhận ra đó chỉ là một chiếc lá. Rồi đột nhiên có tiếng động lạ vang lên từng hồi sau lưng, nhè nhẹ và đều đặn như tiếng giã điếu cày. Sứ giả toát mồ hôi, hai tay lạnh buốt lấy hết can đảm quay người lại, nhưng chẳng nhìn thấy gì ngoài một cái bóng đen mờ ảo rồi thập thò biến mất ngay sau đó. Sứ giả hơi run, bước đi như không định hướng và rồi cuối cùng đặt chân vào chánh điện. Nơi này càng vắng vẻ hơn nữa, và dù sự nghiêm trang, tráng lệ cũng không làm ông bớt đi nỗi sợ. Nghe nói nơi này trước đây đã từng bức tử nhiều cung tì, vì thế hàng loạt các giai thoại huyễn hoặc được đặt ra. Sứ giả cũng biết, nhưng bản thân ông cũng không hiểu tại sao mình lại có can đảm đến đây, có lẽ vì đây là nơi xảy ra vụ đầu độc đêm đó.
- Có ai ở đây không? - Sứ giả hỏi với ánh mắt chờ đợi. - Tôi vừa thấy có người đi vào đây, làm ơn trả lời đi!
Không ai lên tiếng, sứ giả thừa biết sẽ như vậy. Nhưng nỗi sợ bản năng cứ thôi thúc ông tiếp tục hỏi:
- Ta không thích đùa như vậy! Nếu là tên nô tài nào thì mau bước ra, nếu không đừng trách ta nói với hoàng thượng để các ngươi bị ngũ mã phanh thây, bị xử lăng trì! Có ai không?
Đáp lại câu hỏi vẫn chỉ là sự im lặng. Sứ giả bần thần tiến thêm vài bước nữa. Ông có cảm giác như có ai đó đang nhìn mình. À! Mà không, có lẽ đấy chỉ là tưởng tượng từ sâu trong tiềm thức của một con người đang sợ. Có thứ gì đó lướt trong gió nghe vun vút. Tiếp theo là một cảm giác đau điếng ở cổ, nó chạy ngược lên và hội tụ ở đỉnh đầu. Sứ giả chỉ biết có vậy, và một khoảng đen u tối bao trùm lên mọi thứ, ông không còn nhìn thấy gì nữa, ông tách biệt hoàn toàn với thế giới thực tại. Trong vô thức, ông vẫn cảm nhận được tấm thân mình đang ngã xuống.
******
Một cơn gió lạnh thổi qua gáy. Sau bao nhiêu cơn mơ kéo đến, sứ giả choàng tỉnh giấc. Ông không biết mình đã ngất được bao lâu và vì sao lại ngất. Ông đưa tay dụi mắt. Nhưng trước mắt ông giờ đây chẳng có chút ánh sáng. Tiếng gió hú len lỏi vào các cành cây nghe thê lương, ảm đạm. Sứ giả mò mẫm trong bóng tối, nghĩ thầm chắc mắt mình có vấn đề. Nhưng ý nghĩ đó ngay lập tức bị bác bỏ khi ông nhận ra có một luồng sáng le lói chiếu vào. Dù luồng sáng ấy rất bé, không đủ để xua đi sự tối tăm, mờ mịt, nhưng nó cũng gieo rắc trong ông một niềm hi vọng. Một người phụ nữ lặng lẽbước ra cùng với luồng sáng, mặc bộ quần áo dành cho các cung phi, mái tóc xỏa dài.
- Cho tôi hỏi, đây... - Sứ giả ấp úng. - Đây là đâu?
Người phụ nữ không trả lời, mái tóc che khuất gương mặt cô nên sứ giả không thể nhận ra đấy là ai.
- Làm ơn... làm ơn cho tôi biết... đây là đâu. - Sứ giả nài nỉ trong hoảng loạn.
Một cơn gió lạnh khác lại phớt qua, làm thổi bay những sợi tóc xõa dài kia. Gương mặt trắng bệch, không chút sinh khí với vết hằn đỏ dưới cổ. Sứ giả cười như mếu, hai chân có cảm giác mềm nhũn ra, không di chuyển nổi. Toàn thân gần như tê dại, ông chỉ biết ú ớ:
- Cô... cô là...
Một cái nhếch môi, ẩn giấu nụ cười lạnh lùng:
- Ông... không nhận ra tôi sao?
Sứ giả tưởng như mình sắp bị nghẹt thở:
- Dương... Dương... phi... tại sao...?
Giọng nói hòa lẫn tiếng cười man rợ:
- Tôi chết không được siêu thoát! Vì ông! Chỉ vì ông... mà tôi bị nghi ngờ là kẻ hạ độc, là một người thống lãnh hậu cung mà lại bị kẻ khác khinh nhờn, xem như tội nhân, tôi tự tử cũng vì không chịu được nỗi nhục này!
Sứ giả nuốt nước bọt cố lấy hết can đảm lên tiếng:
- Tôi đâu có nói là cô hạ độc... tôi... tôi cũng đâu muốn cô chết... là... là Ngô Tiệp dư... là cô ta mà, nếu cô muốn tìm thì hãy tìm Ngô Tiệp dư... đừng... đừng tìm tôi!
- Nhưng nếu không có kẻ dàn ra mọi chuyện. - Giọng nói kia đầy phẫn uất. - Thì Ngọc Dao sẽ không bắt tay vào điều tra. Từ lâu ả đã luôn muốn trừ khử tôi nên lần này... chính là cơ hội tốt nhất!
- Nhưng chuyện đó đâu... - Sứ giả lấm lét, mồ hôi tuôn ra như suối. - Đâu có liên quan gì tới tôi.
- Vậy tôi hỏi ông... ai là kẻ hạ độc?
- Tôi... sao tôi biết!
- Được! - Lại một nụ cười ma mị. - Chúng ta sẽ cùng đến gặp Diêm Vương Gia đối chứng, tới lúc đó... ông chẳng thể gian dối nửa lời.
- Cái gì? - Sứ giả hoảng hốt.
- Nơi này chính là ranh giới giữa dương gian và địa ngục, có muốn tôi trả ông về dương thế hay không là tùy quyền quyết định của ông. Chỉ một lúc nữa thôi, sứ giả của âm ty sẽ đến đây, tới lúc đó cả tôi và ông sẽ... - Câu nói bỏ lửng kèm theo ánh mắt tràn ngập hận thủ khiến sứ giả phát khiếp.
- Đừng... tôi... tôi vẫn chưa muốn chết, tôi không muốn xuống địa ngục, đừng...
- Vậy rốt cục... mọi chuyện là sao?
Sứ giả ậm ừ hồi lâu rồi lên tiếng:
- Thật ra... mọi kê hoạch đều do hoàng đế Minh triều khởi xướng, tôi chỉ thừa lệnh sắp đặt kế hoạch mà làm. Trước lúc yến tiệc sắp diễn ra, tôi... đã thoa sẵn Châu Hồn Tán ở đầu ngón tay và chuẩn bị cả một nắp bình rượu có chứa thuốc độc rồi...
- Rồi sao?
- Vì Châu Hồn Tán chỉ phát huy tác dụng khi ở trong trà và rượu nên
lúc nâng chung trà lên uống, tôi đã chấm đầu ngón tay ấy vào đó, cố gắng uống cho kì hết để không sót lại manh mối gì. Đến khi màn diệu vũ được khai mở, tôi cố tình tỏ ra say mê một ả cung nữ để cô ta tiến lại gần, vô tình giúp tôi che tầm mắt mọi người. Đồng thời lúc đó ai cũng chỉ chăm chú xem múa, còn cô ta thì chỉ chăm chú vào ly rượu dâng lên miệng tôi, thừa dịp tôi đã...
- Đã tráo đổi nắp bình rượu?
- Đ... đúng! - Tôi đã giấu sẵn nó trong tay áo.
Dương phi cười khinh bỉ, lẳng lặng bước đến gần.
- Cô... cô đã hứa với tôi... cô sẽ tha cho tôi. Cô... cô... không được thất hứa... Tôi xin cô... chỉ cần cô đưa tôi về dương thế, tôi sẽ ngày ngày mời tăng ni đến tụng kinh niệm phật cho cô được siêu thoát, tôi sẽ thành tâm phúng điếu, tôi sẽ...
- Nói nhiều quá! - Dương phi cắt ngang, thần sắt bỗng trở nên bình thường, không còn dữ tợn như trước. - Tôi vốn không có khả năng bắt ông đi!
- Là... là sao? - Sứ giả hỏi, trong khi chưa hết sửng sốt thì Dương phi lên tiếng:
- Đơn giản vì tôi chưa chết.
- Vậy mọi chuyện là...
Ngay lúc đó, cái bóng tối u ám ban nãy đã lập tức bị xua đi, trả lại nguồn sáng rực rỡ. Đèn lồng được thắp lên. Sứ giả bàng hoàng khi nhìn thấy những tấm bình phong che ánh sáng được tháo xuống. Dương phi đứng đấy, hiện ra là một con người bằng xương bằng thịt, nhìn sứ giả mà chẳng nhịn được cười. Hoàng thượng ngự ở long ngai, gật gù tỏ vẻ hài lòng. Bên cạnh còn có Ngọc Dao, Thần phi, Bùi quý nhân, Nguyễn Trãi, quan thái y và các quan đại thần khác. Đây chẳng phải âm ty, cũng chẳng phải ranh giới địa ngục gì cả, mà là chánh điện. Sứ giả như chẳng tin nỗi vào mắt mình, hóa ra từ nãy đến giờ ông đang làm trò cười ọi người. Sỉ diện bị đánh mất, danh dự bị người ta coi thường, ông đứng lên nhìn hoàng thượng mà thẳng thừng:
- Các người... các người gài bẫy ta?
Hoàng thượng vẫn bình thản:
- Nếu không làm vậy thì sao biết được thực hư bên trong như thế nào? Huống hồ trưa nay ngài cũng nói là muốn biết sự thật, chúng tôi chỉ chiều ý ngài thôi!
Dương phi cũng tiếp lời:
- Ông đã dàn ra một vở kịch khiến hơn chục mạng người suýt nữa đầu lìa khỏi cổ. Chúng tôi chỉ muốn tìm lại sự công bằng. Đã có rất nhiều suy đoán được đặt ra, nhưng người tính không bằng trời tính. Ông cứ nghĩ tất cả đã hoàn hảo, song không ngờ rằng có một ít trà trong chung trà của ông đã rơi vào kẽ hở của bàn. Vì không thể khô nhanh chóng được nên cuối cùng nó vẫn bị phát hiện. Cũng nhờ Ngô Tiệp dư tùy cơ ứng biến, dùng kế dựng địa ngục giả mới khiến ông không đánh mà khai.
Hoàng thượng dõng dạc:
- Đất nước chúng tôi tuy nhỏ bé, nhưng trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng không để ngoại bang mượn cớ gây chiến. Sinh linh đầu tháng, máu chảy thành sông, đó là kết quả của những cuộc chiến vì sự ích kỉ của bậc đế vương. Nhắn lại với hoàng đế Minh triều các ngài, chúng tôi vẫn muốn hai quốc gia tiếp tục giữ vững nền hòa hiếu. Chúng tôi sẽ không làm khó dễ ngài, mong ngài nên biết lấy đại cuộc làm trọng. Chuyện hôm nay coi như là một bài học dành cho ngài.
Sứ giả ngượng đỏ cả mặt, nhưng vẫn cố gắng biện hộ:
- Các người muốn tìm ra sự thật thì tôi không nói, nhưng các người làm vậy chẳng khác gì sỉ nhục sứ thần.
Dương phi cũng chẳng nhịn:
- Đã làm chuyện sai trái, không những không hối lỗi mà còn chấp mê bất ngộ.
Nguyễn Trãi thấy vậy vội đỡ lời:
- Đã là người thì không ai là không phạm sai lầm, điều quan trọng là có biết sửa sai hay không. Việc ngài làm không chỉ trái với thiên đạo mà còn nghịch với nhân lí. Chúng tôi làm thếnày là để ngài tự nhận ra khuyết điểm mà sửa chữa, so với việc chúng tôi thẳng thừng đứng ra chỉ trích ngài, cái nào tế nhị hơn?
Sứ giả im lặng hồi lâu, gương mặt cũng bớt phần phẫn nộ. Nguyễn Trãi tiếp:
- Muốn người ta không biết, trừ khi mình đừng làm. Nếu là sự thật thì sớm muộn gì cũng sẽ bị phơi bày. Chân lý này mong ngài hiểu.
- Trời không còn sớm nữa, ngài hãy về nghỉ ngơi để sáng ngày mai còn lên đường. - Hoàng thượng nói, vẻ thân thiện.
Sứ giả cúi đầu quay bước đi. Một cánh hoa rơi, lặng lẽ đậu trên vai ông. Tiết xuân cũng làm lòng người vơi bớt nỗi ưu tư. Nhân chi sơ tính bổn thiện, bản tính sứ giả không xấu, chẳng qua chỉ mù quán trong một lúc nhất thời. Đâu đó thoang thoảng trong không gian, ông vẫn cảm nhận được hương rượu nồng đượm hòa lẫn với tiếng đàn đêm khuya vắng.
Ngày tết đến là ngày mà toàn thể người dân Đại Việt ai cũng háo hức chờ đón. Khắp thành Thăng Long hoa cỏ đua nhau khoe sắc. Người thì mua lễ phẩm, người đi chùa cầu bình an, tiếng cười nói rôm rả cả chốn kinh thành. Những ông đồ ngồi nép vào một góc, hí hoáy viết chữ lên tấm liễng đỏ, nét chữ đẹp khiến ai cũng phải trầm trồ. Vào dip này, những tài tử giai nhân lại cùng nhau ước duyên thề hẹn, dập dìu xiêm y lộng lẫy. Cứ khoảng chiều 30 Tết, khói bếp của từng nhà nghi ngút bay lên, người ta quây quần bên nồi bánh chưng xanh, chuẩn bị để đón giao thừa.
Trong hoàng cung, ngày Tết cũng vui thú không kém. Ngày lập xuân, nhà vua mở yến trong Đại Nội. Toàn bộ bá quan văn võ làm việc tại kinh đô đều y phục chỉnh tề, cài hoa lên đầu vào Đại Nội dự yến. 28 tháng chạp, hoàng thượng ngự long giá, các quan mặc triều phục theo phò tá hai bên. Long giá đi đến tế lễ ở đền Đế Thích ngoài thành Thăng Long. Ngày 30 Tết, hoàng thượng ngồi giữa cửa Đoan Củng, các quan đến hành lễ rồi vào xem diệu vũ. Buổi tối, hoàng thượng lại qua cung Động Nhân, bái yết Tiên Vương. Đêm ấy, có đạo thầy tu vào chánh điện làm lễ Khu Na. Sau đó, tất cả những người trong hoàng cung đều hội tụ ra sảnh, có bày biện mọi thức ngon vật lạ, cùng nhau đối thơ, xem múa hát. Đến nửa đêm thì cùng vui vẻ đón giao thừa, uống chung rượu quý, bước qua lò than hồng để xua đuổi mọi xuôi quẫy trong năm qua, cúi đầu hành lễ với đất trời để cầu một năm mới tốt đẹp. Ngày mồng 1 Tết, vào khoảng canh 5, hoàng thượng ngồi trên điện Vĩnh Thọ, các quan cận thần làm lễ hạ rước, rồi vào cung Trường Xuân, vọng bái các lăng tổ. Buổi sáng sớm, hoàng thượng ngồi trên điện Thiên An, các phi tần sắp lớp ngồi bên dưới, các quan đứng trước điện, chơi các bài nhạc trước đại đình. Các bề tôi sắp thành hàng bái hạ, ba lần rót rượu dâng lên. Xong xuôi, mọi người lên chầu và dự yến. Các quan nội thần ngồi hai bên ăn tiệc, đến trưa thì lần lượt ra về. Đến mồng 3 Tết, tổ chức lễ khai hạ, ăn yến xong thì để quan và dân lễ quanh các chùa miếu và du ngoạn các vườn hoa. Đêm Nguyên tiêu, người ta trồng những cây đèn ở giữa sân rồng, gọi là đèn Quảng Chiếu, thắp đến mấy vạn ngọn, sáng rực cả trên trời dưới đất, thầy tu đi quanh tụng kinh phật, các quan lễ bái, gọi là chầu đèn.
Sáng mồng 8, Dương phi và Ngọc Dao cùng tì nữ dạo quanh vườn thượng uyển. Ánh nắng mùa xuân lướt nhanh trên những đóa hoa, hương thơm ngào ngạt. Mấy chú cá vàng bơi lội tung tăng dưới hồ. Dương phi dừng lại ngắm nghía giây lát rồi quay sang Ngọc Dao:
- Ngay cả cá vàng xem ra cũng cảm nhận được hương vị của ngày Tết, vạn vật đều hân hoan phấn khởi.
- Mùa xuân là mùa của khởi đầu, hi vọng từ nay trong chốn hậu cung sẽ
không còn xảy ra lắm chuyện thị phi nữa.
- À phải rồi! - Dương phi đưa tay đỡ lấy một cánh hoa đào đang rơi xuống. - Mấy ngày nay Thần phi có tìm đến muội sinh sự không?
Ngọc Dao lắc đầu, một tay cúi xuống chạm vào mặt nước long lanh:
- Dạ không! Dù gì cũng là đầu năm mới, có lẽ tỉ ấy cũng kiêng kị, không muốn phiền hà!
- Có lẽ tỉ lo xa quá, tại lần trước muội giải được vụ đầu độc sứ giả, được hoàng thượng tin tưởng, chỉ sợ Thần phi không phục mà thôi.
Ngọc Dao nhoẻn miệng cười:
- Thật ra con người của Thần phi, theo như muội thấy chưa hẳn đã xấu. Nếu hai người có cơ hội giải tỏa nỗi lòng, muội nghĩ sẽ xóa đi thành kiến.
Dương phi biết rõ Ngọc Dao hiền từ, nhưng không có nghĩa là lúc nào cũng quá nhẹ dạ. Đối với nàng, bản chất ích kỉ, nhỏ nhen của Thần phi dường như đã ăn sâu vào trong xương tủy.
- Muội nghĩ quá đơn giản rồi! Muội bây giờ không phải là mục tiêu của ả, muội chưa thấy được hết tâm tánh ả đâu!
- Đều là người của hậu cung, muội chỉ muốn mọi người hòa thuận sống những ngày tháng vui vẻ. Cái gì là quyền lực, cái gì là địa vị, chẳng qua chỉ là hư ảo mà thôi!
Dương phi gật gù, buông lời nhận xét:
- Trên đời này hiếm ai có được suy nghĩ như muội. Nhưng hoàng cung đầy rẫy những thủ đoạn, muội nên cẩn trọng thì hơn.
- Muội sẽ ghi nhớ lời tỉ dạy!
- Sẵn đây tỉ cũng có quà muốn tặng muội. - Dương phi cười tươi quay sang người cung tì đứng bên cạnh. Cô ta mang ra một chiếc hộp đỏ có thêu hình hoa văn sặc sở. Dương phi mở nắp hộp, bên trong là một tượng phật Di Lặc, nét mặt rạng rỡ, hài đồng tinh nghịch ngồi xung quanh. Tượng toát lên ánh sáng thanh khiết, hào quang vô cùng quý phái. Dương phi nhìn Ngọc Dao rồi nói:
- Đây là tượng phật Di Lặc, được làm từ bạch ngọc do nước láng giềng gửi tặng. Người trung nguyên thương hay đặt tượng này trong nhà, ngày ngày thắp hương cũng bái, tin rằng sẽ mau chóng có quý tử.
Ngọc Dao ngắm nghía một lúc rồi hỏi:
- Tỉ tặng tượng này uội là...?
- Tỉ và Bùi quý nhân đều đã hạ sinh tôn tử, Thần phi cũng đang mang đế duệ, chỉ có muội là vẫn chưa có long thai mà thôi! Tượng phật này ngụ ý cát tường, mong rằng muội sẽ sớm hạ sinh một đứa trẻ bụ bẫm đáng yêu cho hoàng thượng.
Một đứa trẻ, đối với Ngọc Dao đó không phải là bùa hộ mệnh để đưa nàng lên ngôi vị cao sang như bao nhiêu cung tần khác thường nghĩ. Đó là kết tinh của tình yêu giữa nàng và hoàng thượng, nàng lại mơ màng nghĩ đến ngày đó, khi nàng và hoàng thượng cùng dắt tay đứa trẻ đi dạo vườn thượng uyển, hạnh phúc biết bao.
- Đa tạ tỉ tỉ. - Ngọc Dao đón nhận rồinhư sực nhớ ra một điều gì, nàng nói: - À! Muội có chuyện này muốn ngỏ ý, hi vọng tỉ tỉ không trách.
- Muội nói đi!
Ngọc Dao ngập ngừng:
- Cả muội và Bùi quý nhân đều được tỉ tặng quà, chỉ có Thần phi là chưa có, muội thấy... làm vậy không công bằng cho lắm.
Nghe nhắc đến Thần phi, Dương phi như cụt cả hứng. Nàng quay phắt người, đáp:
- Không phải chưa có, mà là tỉ không muốn tặng.
- Năm mới tỉ cũng nên bỏ hết mọi chuyện không vui đi, đừng nhớ đến nó làm gì! Một món quà không đáng là bao, nhưng tỉ sẽ khiến người ta nể phục.
Trong hậu cung, người Dương phi thân thiết nhất là Ngọc Dao, người nàng tin tưởng nhất vẫn là Ngọc Dao. Nghe Ngọc Dao nói cũng có lí, Dương phi chần chừ hồi lâu rồi lên tiếng:
- Thôi được, coi như nể mặt muội vậy!
- Ngô tiệp dư, có Nguyễn Trãi đại nhân cầu kiến, hiện đang đợi ở cung của người! - Một tên thái giám chạy đến, cúi đầu kính cẩn.
- Được rồi, ngươi đi làm việc đi! - Rồi Ngọc Dao cúi chào Dương phi. - Muội có việc phải về cung, xin cáo lui trước.
- Ừm! - Dương phi mỉm cười, nhìn theo bóng Ngọc Dao khuất dần sau rặng anh đào. Đâu đó vẫn thoang thoảng mùi hương của các loại mức quý hiếm nhất cung đình. Nàng rảo bước quanh hồ, tiếp tục thưởng hoa.
******
Nguyễn trãi đã ngồi đợi Ngọc Dao tự lúc nào, vừa nhìn thấy bóng dáng của nàng, ông đã cung kính:
- Tham kiến nương nương!
- Nguyễn Trãi thúc thúc không cần phải đa lễ, cứ xưng hô như hồi trước khi cháu nhập cung. - Ngọc Dao bước đến, vẻ rạng rỡ. Nguyễn Trãi hơi ngần ngại:
- Nhưng là bậc quân thần, sao có thể xưng hô như vậy?
- Nơi này không phải là chánh điện, cũng không phải đang đứng trước mặt bá quan văn võ, hãy cứ tự nhiên. Mời thúc ngồi!
Nguyễn Trãi khoan thai ngồi xuống. Ngọc Dao bắt đầu hỏi chuyện:
- Không biết thúc thúc muốn gặp cháu có chuyện gì?
- Cũng không có gì quan trọng, chẳng qua ngày trước ta với phụ thân cháu là bạn tri âm. Ngày ông qua đời đã gửi gắm cháu cho ta, mà dạo này nhiều việc bận quá nên cũng không có dịp thăm hỏi, ta chỉ muốn biết trong hậu cung cháu sống như thế nào?
Ngọc Dao mỉm cười:
- Cuộc sống nhàn hạ, mọi người xung quanh ai cũng quan tâm cháu, đối với cháu như thế là quá tốt rồi.
- Nhưng ta thấy Thần phi dường như...
- Tỉ ấy chỉ có chút thành kiến với cháu thôi, nhưng cháu tin rồi mọi chuyện sẽ đâu vào đấy!
Nguyễn Trãi gật gù:
- Ta hiểu. Nhưng cháu cũng đừng nên quá chủ quan. Hậu cung tranh sủng không phải là chuyện xưa nay hiếm thấy, phải biết cố gắng giữ mình.
- Dạ vâng! À, mà sao dạo này cháu không thấy tam phu nhân(*) vào hoàng cung?
- Bà ấy bận tiếp mấy người họ hàng bên ngoại. Được hoàng thượng ban tước lễ nghi học sĩ, bà ấy cũng rất muốn góp sức cho triều đình.
Ngọc Dao nâng một tách trà lên miệng uống rồi nói:
- Tam phu nhân tinh thông kinh sử, tài trí thông minh, quả thật là một nhân tài của Đại Việt. Mà dạo này thúc có nghe đồn đại một số chuyện kì lạ bên ngoài thành không?
- Chuyện gì? - Nguyễn Trãi thắc mắc.
- Đáng lẽ cũng không nên chú ý, chỉ có điều nó có liên quan đến vận mệnh của hoàng tộc.
- Chuyện thế nào vậy?
Ngọc Dao nhìn vào khoảng không mông lung như để gợi nhớ lại câu chuyện, nàng nói:
- Ở một ngôi làng ngoài thành có một cô gái bị câm từ nhỏ. Nhưng rồi đến một ngày, khi thấy quan quân của triều đình đi ngang, cô ấy đã cất tiếng nói, và lời nói đầu tiên là một lời tiên đoán.
- Lời tiên đoán?
- Đúng! Cô ấy bảo rằng hoàng cung rồi đây sẽ chìm trong loạn lạc, máu chảy đầu rơi, tiếng khóc than thấu tận trời xanh. Quan trấn giữ vì không muốn phiền hà nên đã xử trảm, đáng sợ là khi đầu đã lìa khỏi cổ rồi mà mắt vẫn chớp, miệng vẫn hét vang chữ "máu" rồi mới chết.
Nguyễn Trãi cười khì:
- Tất cả chỉ là đồn đại. Ta đã từng gặp những chuyện li kì thần thánh thế này rồi, nhưng ta tin mình có thể làm chủ số mệnh.
- Bởi vậy hoàng thượng vì sợ mọi người đem lòng hoang mang nên mới không tiết lộ chuyện này, có lẽ trong hoàng cung cũng không ai biết.
Nguyễn Trãi biết rõ Ngọc Dao rất nhạy cảm với những chuyện như này, nhưng ông thì không muốn nhắc đến, trong hoàng cung càng kín tiếng bao nhiêu thì càng tốt, một lời nói phát ra không biết có bao nhiêu hiểm họa rình rập, ông chỉ muốn tốt cho Ngọc Dao. Ông nhìn bâng quơ rồi chuyển sang việc khác:
- Năm mới cũng không nên nói nhiều đến những chuyện xui xẻo thế này làm gì, lần trước cháu có nói với ta là cháu muốn ăn món dưa hành do chính tay nhị phu nhân làm, bà ấy đã đích thân làm gửi cho cháu đây. - Nguyễn Trãi vừa nói vừa mang một hũ nhỏ đặt lên bàn.
Ngọc Dao tươi cười rồi trầm ngâm giây lát:
-
Sống trong hoàng cung ăn toàn cao lương mĩ vị, đôi khi lại thèm chút phong vị thôn quê. Ngày trước, món cháu thích ăn nhất là món dưa hành do nhị phu nhân làm, bây giờ mới được thưởng thức lại.
- Thấy cháu sống tốt ta cũng vui, phụ thân cháu dưới suối vàng cũng có thể thấy lòng thanh thản. Sự đời biến chuyển khó lường, đôi khi mình muốn tĩnh nhưng lại phải động, muốn có cuộc sống an nhàn nhưng lòng thì đau đáu nghĩ đến non sông, để rồi trở lại chốn quan trường, bao nhiêu mưu đồ vẫn luôn ngấm ngầm đe dọa. Sống trong hậu cung, đừng nên quá nhẹ dạ, không phải ai cũng tốt như mình nghĩ đâu.
- Cháu sẽ đề phòng. Nhưng chỉ cần lòng kiên định, có lẽ sẽ không thứ gì quật ngã được mình.
Nguyễn Trãi ghé mắt nhìn ra cửa, ánh nắng đã chuyển dần sang buổi trưa, vàng rực.
- Thôi cũng trễ rồi, ta phải về! Cáo từ! - Nguyễn Trãi đứng lên đĩnh đạc bước ra cửa.
- Cho cháu gửi lời thăm hỏi đến mọi người! - Ngọc Dao nói vọng theo.
Nguyễn Trãi cười không đáp, lặng lẽ bước đi. Trời se lạnh, ánh nắng vẫn cố truyền ngọn lửa ấm áp của mình xuống mặt đất. Ngoài kia, vạn vật đang đâm chồi nảy lộc. Nụ hồng quấn quýt bên đóa hoa vạn thọ, ra vẻ đuổi xua nhành mai đang ghé xuống, nhịp sống tràn ngập khắp nơi, sự bắt đầu của một mùa xuân.
(*) Tức Nguyễn Thị Lộ, bà được hoàng thượng phong tước lễ nghi học sĩ vì có tài năng thơ văn khá uyên bác
Đêm xuân lặng lẽ buông dần, phảng phất cơn gió nhẹ kéo theo những cánh hoa rơi lã tã. Một tiếng đàn tì bà văng vẳng, quyện theo gió lướt nhẹ qua các cành cây. Tiếng đàn ấy có chút gì phẫn uất,càng lúc càng dồn dập, gấp gáp rồi vỡ ra bằng một âm thanh cao vút. Tiếng đàn ngưng bặt, và người ta biết nó phát ra từ phía phòng của Thần phi.
- Nương nương, tiếng đàn của người nghe ai oán quá, người đang buồn bực chuyện gì sao? - Ả cung tì gặn hỏi, bẽn lẽn khép cánh cửa phòng lại.
- Liên quan gì tới ngươi, nhiều chuyện quá!
Ả cung tì biến sắc chẳng dám nói thêm nửa lời, im lặng rót một chung trà dâng cho Thần phi. Có tiếng gõ cửa bên ngoài, Thần phi hỏi vọng ra:
- Ai đấy?
- Là tỉ đây, tỉ vào được chứ?
Nghe giọng nói, Thần phi biết đấy là Dương phi. Nàng cười nham hiểm, đôi mắt liếc xéo, lên tiếng:
- Vào đi!
Dương phi cùng tì nữ bước vào, thần sắc rạng rỡ, khẽ mỉm cười:
- Dạo này không có dịp để thăm hỏi muội muội, tỉ thân là thống lĩnh hậu cung, làm vậy có phần không phải, dù gì thì cũng là những ngày đầu xuân, chũng ta cũng nên bỏ hết mọi chuyện hiểu lầm trước đây.
- Tâm ý của tỉ tỉ muội xin ghi khắc, nhưng hiếm khi tỉ đại giá quan lâm đến đây, chắc là hôm nay trời sắp bão.
Biết Thần phi đang cố tình chọc tức mình, Dương phi vẫn cố tỏ ra điềm đạm:
- Muội hiểu lầm ý tỉ rồi, tỉ hoàn toàn có ý tốt. Vả lại muội đang mang long duệ của hoàng thượng, sao tỉ có thể không quan tâm.
- Phải rồi! Tỉ tất nhiên phải quan tâm! Ngôi thái tử. -
Từng đoàn cung tì và thái giám bước nhanh về phía phòng của Dương phi, trên mặt thoáng nét buồn rười rượi. Ắt hẳn là phải có chuyện gì. Sứ giả bước đến, không nén được tò mò hỏi một cung tì:
- Có chuyện gì xảy ra mà các ngươi tư dung buồn bã vậy, lại còn kéo nhau đến phòng của Dương phi?
Ả cung tì hơi ái ngại:
- Sứ giả thứ tội... e rằng... chuyện này nô tì không thể nói.
Sứ giả bực mình lớn tiếng:
- Ta muốn ngươi nói thì ngươi phải nói! Có chuyện gì?
- Dạ... - Ả cung tì ấp úng.
- Nói nhanh lên!
- Dạ... Dương phi nương nương, người đã...
- Thế nào? - Sứ giả quát.
- Có lẽ vì nghe Ngô Tiệp dư nói mình có liên quan đến chuyện hạ độc sứ giả nên Dương phi đã thắt cổtự tử!
Sứ giả sửng sốt như không tin vào những gì mình nghe thấy:
- Ngươi nói cái gì? Tự tử?
- Dạ... dạ đúng! Lúc nãy người của phòng trang sức mang trâm cài đến cho Dương phi và... đã phát hiện nên...
Sứ giả có vẻ sợ sệt:
- Sao lại như vậy, chỉ vì chuyện đó mà Dương phi thắt cổ tự tử?
Tiếng ả cung tì lí nhí trong cổ họng:
- Nô tì không rõ.
Sứ giả hất hàm, gạt đi vẻ thàng thốt trên gương mặt:
- Thôi được rồi, ngươi đi đi, không có chuyện của ngươi nữa.
- Dạ vâng!
Người cung tì bước vào hàng ngũ, tiếp tục đi đến phòng của Dương phi. Sứ giả định bụng không đến nhưng dù sao ở trong hoàng cung của Lê triều, làm vậy cũng không phải phép. Ông mạnh dạn đến chia buồn cùng hoàng thượng. Ngài bế thái tử Lê Nghi Dân, khóe mắt lưng tròng nước. Quanh đó vẫn vang lên những tiếng khóc sụt sùi. Dương phi nằm im trên giường, dưới cổ vẫn còn một vết hằn đỏ.
- Quả thật tôi lấy làm thương tiếc cho Dương phi, đang sống yên lành lại phải... - Sứ giả lên tiếng, đưa mắt nhìn hoàng thượng.
Hoàng thượng buông tiếng thở dài, cố nén đau khổ:
- Mọi việc chưa hẳn đã đến đường cùng, sao nàng ấy lại làm chuyện dại dột như thế?
- Có lẽ Dương phi vì sợ tội mà tự sát. Người chết không thể sống lại, hoàng thượng đừng quá đau buồn!
- Lúc còn sống, Dương phi luôn thống lãnh hậu cung bằng tất cả trách nhiệm của mình, bây giờ cho dù có làm chuyện gì sai trái, trẫm cũng sẽ nương tình xử nhẹ, vậy mà... - Hoàng thượng ngậm ngùi, tình cảnh ấy thật khiến người ta chua xót.
- Số kiếp do trời định, Dương phi tạ
thế là do duyên hồng trần đã mãn, chúng ta cũng không thể nào cãi lại được.
Hoàng thượng quay sang sứ giả, ánh mắt đầy nghi hoặc:
- Sứ giả, ngài... đã bao giờ gặp ma chưa?
Lại gì nữa đây. Câu nói lạ lùng của hoàng thượng làm sứ giả khó hiểu.
- Hoàng thượng, ý ngài là...
- Nếu một người chết trong oan ức, chắc chắn sẽ quay về tìm kẻ gây ra nỗi oan của mình mà báo thù.
Sứ giả lấm lét:
- Ngài... nói chuyện này với bổn sứ để làm gì?
- Không có gì! Trẫm chỉ nói bâng quơ vậy thôi!
Sứ giả dù chẳng biết hàm ý bên trong đó là sao, nhưng ông cũng phần nào thấy bớt căng thẳng.
- Ngài định khi nào mai táng cho Dương phi?
- Có lẽ là ngày mai! - Hoàng thượng lay bước, giọng trầm xuống. - Cả nước sẽ phải chịu quốc tang trong ba ngày.
Sứ giả bước ra cửa, nhưng vẫn ngoái đầu nhìn lại một lần nữa. Các phi tần và cung tì quỳ bên giường Dương phi, khóc than ai oán. Thấy cảnh ấy, đột nhiên sứ giả ớn lạnh cả sống lưng, nhất là khi nhìn vào gương mặt đầy thống khổ của Dương phi, như muốn bày giải một điều gì.
Ông trở về phòng, đóng sầm cánh cửa lại ngồi khuỵu xuống. Chưa bao giờ ông có cảm giác này - một nỗi ám ảnh. Không phải vì ông thương hại Dương phi, mà vì ông sợ cái mà hoàng thượng nói - hồn ma. Chỉ mới trưa nay, khi Ngự thiện phòng sắp sửa bị hành quyết, ông chẳng có chút sợ sệt nào. Vậy mà giờ đây, khi một người đã thật sự lìa đời... Khuôn mặt Dương phi, nó như hiện ra lồ lộ trước mắt, với vết hằn đỏ dưới cổ, một vẻ mặt dữ tợn, cay đắng. Ông cố cắn răn lắc đầu qua lại để không nhớ, nhưng nó không buôn tha ông. Cực chẳng đã, ông phải mở cửa phòng để ra vườn thượng uyển giải khuây. Bước chân nặng nề, và bóng trăng mờ ảo trên mặt hồ. Một hạt nước nhỏ rơi xuống, mặt nước tụ lại như muốn nuốt chửng bóng trăng. Giờ này có lẽ mọi người đều đang ở phòng của Dương phi và một vài nơi lân cận đó. Đèn lồng được thắp sáng khắp nơi nhưng sứ giả vẫn có cảm giác rờn rợn. Đêm nay vắng hơn mọi đêm, chỉ nghe thấy tiếng lá rơi xào xạc. Đôi ba cấm vệ quân và thái giám bước trong im lặng, rồi cũng dần khuất sau bóng tối. Đi được một lúc, sứ giả mới nhận ra mình đã ra khỏi vườn thượng uyển tự lúc nào. Có thứ gì đó rơi trên vai ông. Sứ giả quay phắt người lại, thở phào nhẹ nhõm khi nhận ra đó chỉ là một chiếc lá. Rồi đột nhiên có tiếng động lạ vang lên từng hồi sau lưng, nhè nhẹ và đều đặn như tiếng giã điếu cày. Sứ giả toát mồ hôi, hai tay lạnh buốt lấy hết can đảm quay người lại, nhưng chẳng nhìn thấy gì ngoài một cái bóng đen mờ ảo rồi thập thò biến mất ngay sau đó. Sứ giả hơi run, bước đi như không định hướng và rồi cuối cùng đặt chân vào chánh điện. Nơi này càng vắng vẻ hơn nữa, và dù sự nghiêm trang, tráng lệ cũng không làm ông bớt đi nỗi sợ. Nghe nói nơi này trước đây đã từng bức tử nhiều cung tì, vì thế hàng loạt các giai thoại huyễn hoặc được đặt ra. Sứ giả cũng biết, nhưng bản thân ông cũng không hiểu tại sao mình lại có can đảm đến đây, có lẽ vì đây là nơi xảy ra vụ đầu độc đêm đó.
- Có ai ở đây không? - Sứ giả hỏi với ánh mắt chờ đợi. - Tôi vừa thấy có người đi vào đây, làm ơn trả lời đi!
Không ai lên tiếng, sứ giả thừa biết sẽ như vậy. Nhưng nỗi sợ bản năng cứ thôi thúc ông tiếp tục hỏi:
- Ta không thích đùa như vậy! Nếu là tên nô tài nào thì mau bước ra, nếu không đừng trách ta nói với hoàng thượng để các ngươi bị ngũ mã phanh thây, bị xử lăng trì! Có ai không?
Đáp lại câu hỏi vẫn chỉ là sự im lặng. Sứ giả bần thần tiến thêm vài bước nữa. Ông có cảm giác như có ai đó đang nhìn mình. À! Mà không, có lẽ đấy chỉ là tưởng tượng từ sâu trong tiềm thức của một con người đang sợ. Có thứ gì đó lướt trong gió nghe vun vút. Tiếp theo là một cảm giác đau điếng ở cổ, nó chạy ngược lên và hội tụ ở đỉnh đầu. Sứ giả chỉ biết có vậy, và một khoảng đen u tối bao trùm lên mọi thứ, ông không còn nhìn thấy gì nữa, ông tách biệt hoàn toàn với thế giới thực tại. Trong vô thức, ông vẫn cảm nhận được tấm thân mình đang ngã xuống.
******
Một cơn gió lạnh thổi qua gáy. Sau bao nhiêu cơn mơ kéo đến, sứ giả choàng tỉnh giấc. Ông không biết mình đã ngất được bao lâu và vì sao lại ngất. Ông đưa tay dụi mắt. Nhưng trước mắt ông giờ đây chẳng có chút ánh sáng. Tiếng gió hú len lỏi vào các cành cây nghe thê lương, ảm đạm. Sứ giả mò mẫm trong bóng tối, nghĩ thầm chắc mắt mình có vấn đề. Nhưng ý nghĩ đó ngay lập tức bị bác bỏ khi ông nhận ra có một luồng sáng le lói chiếu vào. Dù luồng sáng ấy rất bé, không đủ để xua đi sự tối tăm, mờ mịt, nhưng nó cũng gieo rắc trong ông một niềm hi vọng. Một người phụ nữ lặng lẽbước ra cùng với luồng sáng, mặc bộ quần áo dành cho các cung phi, mái tóc xỏa dài.
- Cho tôi hỏi, đây... - Sứ giả ấp úng. - Đây là đâu?
Người phụ nữ không trả lời, mái tóc che khuất gương mặt cô nên sứ giả không thể nhận ra đấy là ai.
- Làm ơn... làm ơn cho tôi biết... đây là đâu. - Sứ giả nài nỉ trong hoảng loạn.
Một cơn gió lạnh khác lại phớt qua, làm thổi bay những sợi tóc xõa dài kia. Gương mặt trắng bệch, không chút sinh khí với vết hằn đỏ dưới cổ. Sứ giả cười như mếu, hai chân có cảm giác mềm nhũn ra, không di chuyển nổi. Toàn thân gần như tê dại, ông chỉ biết ú ớ:
- Cô... cô là...
Một cái nhếch môi, ẩn giấu nụ cười lạnh lùng:
- Ông... không nhận ra tôi sao?
Sứ giả tưởng như mình sắp bị nghẹt thở:
- Dương... Dương... phi... tại sao...?
Giọng nói hòa lẫn tiếng cười man rợ:
- Tôi chết không được siêu thoát! Vì ông! Chỉ vì ông... mà tôi bị nghi ngờ là kẻ hạ độc, là một người thống lãnh hậu cung mà lại bị kẻ khác khinh nhờn, xem như tội nhân, tôi tự tử cũng vì không chịu được nỗi nhục này!
Sứ giả nuốt nước bọt cố lấy hết can đảm lên tiếng:
- Tôi đâu có nói là cô hạ độc... tôi... tôi cũng đâu muốn cô chết... là... là Ngô Tiệp dư... là cô ta mà, nếu cô muốn tìm thì hãy tìm Ngô Tiệp dư... đừng... đừng tìm tôi!
- Nhưng nếu không có kẻ dàn ra mọi chuyện. - Giọng nói kia đầy phẫn uất. - Thì Ngọc Dao sẽ không bắt tay vào điều tra. Từ lâu ả đã luôn muốn trừ khử tôi nên lần này... chính là cơ hội tốt nhất!
- Nhưng chuyện đó đâu... - Sứ giả lấm lét, mồ hôi tuôn ra như suối. - Đâu có liên quan gì tới tôi.
- Vậy tôi hỏi ông... ai là kẻ hạ độc?
- Tôi... sao tôi biết!
- Được! - Lại một nụ cười ma mị. - Chúng ta sẽ cùng đến gặp Diêm Vương Gia đối chứng, tới lúc đó... ông chẳng thể gian dối nửa lời.
- Cái gì? - Sứ giả hoảng hốt.
- Nơi này chính là ranh giới giữa dương gian và địa ngục, có muốn tôi trả ông về dương thế hay không là tùy quyền quyết định của ông. Chỉ một lúc nữa thôi, sứ giả của âm ty sẽ đến đây, tới lúc đó cả tôi và ông sẽ... - Câu nói bỏ lửng kèm theo ánh mắt tràn ngập hận thủ khiến sứ giả phát khiếp.
- Đừng... tôi... tôi vẫn chưa muốn chết, tôi không muốn xuống địa ngục, đừng...
- Vậy rốt cục... mọi chuyện là sao?
Sứ giả ậm ừ hồi lâu rồi lên tiếng:
- Thật ra... mọi kê hoạch đều do hoàng đế Minh triều khởi xướng, tôi chỉ thừa lệnh sắp đặt kế hoạch mà làm. Trước lúc yến tiệc sắp diễn ra, tôi... đã thoa sẵn Châu Hồn Tán ở đầu ngón tay và chuẩn bị cả một nắp bình rượu có chứa thuốc độc rồi...
- Rồi sao?
- Vì Châu Hồn Tán chỉ phát huy tác dụng khi ở trong trà và rượu nên
lúc nâng chung trà lên uống, tôi đã chấm đầu ngón tay ấy vào đó, cố gắng uống cho kì hết để không sót lại manh mối gì. Đến khi màn diệu vũ được khai mở, tôi cố tình tỏ ra say mê một ả cung nữ để cô ta tiến lại gần, vô tình giúp tôi che tầm mắt mọi người. Đồng thời lúc đó ai cũng chỉ chăm chú xem múa, còn cô ta thì chỉ chăm chú vào ly rượu dâng lên miệng tôi, thừa dịp tôi đã...
- Đã tráo đổi nắp bình rượu?
- Đ... đúng! - Tôi đã giấu sẵn nó trong tay áo.
Dương phi cười khinh bỉ, lẳng lặng bước đến gần.
- Cô... cô đã hứa với tôi... cô sẽ tha cho tôi. Cô... cô... không được thất hứa... Tôi xin cô... chỉ cần cô đưa tôi về dương thế, tôi sẽ ngày ngày mời tăng ni đến tụng kinh niệm phật cho cô được siêu thoát, tôi sẽ thành tâm phúng điếu, tôi sẽ...
- Nói nhiều quá! - Dương phi cắt ngang, thần sắt bỗng trở nên bình thường, không còn dữ tợn như trước. - Tôi vốn không có khả năng bắt ông đi!
- Là... là sao? - Sứ giả hỏi, trong khi chưa hết sửng sốt thì Dương phi lên tiếng:
- Đơn giản vì tôi chưa chết.
- Vậy mọi chuyện là...
Ngay lúc đó, cái bóng tối u ám ban nãy đã lập tức bị xua đi, trả lại nguồn sáng rực rỡ. Đèn lồng được thắp lên. Sứ giả bàng hoàng khi nhìn thấy những tấm bình phong che ánh sáng được tháo xuống. Dương phi đứng đấy, hiện ra là một con người bằng xương bằng thịt, nhìn sứ giả mà chẳng nhịn được cười. Hoàng thượng ngự ở long ngai, gật gù tỏ vẻ hài lòng. Bên cạnh còn có Ngọc Dao, Thần phi, Bùi quý nhân, Nguyễn Trãi, quan thái y và các quan đại thần khác. Đây chẳng phải âm ty, cũng chẳng phải ranh giới địa ngục gì cả, mà là chánh điện. Sứ giả như chẳng tin nỗi vào mắt mình, hóa ra từ nãy đến giờ ông đang làm trò cười ọi người. Sỉ diện bị đánh mất, danh dự bị người ta coi thường, ông đứng lên nhìn hoàng thượng mà thẳng thừng:
- Các người... các người gài bẫy ta?
Hoàng thượng vẫn bình thản:
- Nếu không làm vậy thì sao biết được thực hư bên trong như thế nào? Huống hồ trưa nay ngài cũng nói là muốn biết sự thật, chúng tôi chỉ chiều ý ngài thôi!
Dương phi cũng tiếp lời:
- Ông đã dàn ra một vở kịch khiến hơn chục mạng người suýt nữa đầu lìa khỏi cổ. Chúng tôi chỉ muốn tìm lại sự công bằng. Đã có rất nhiều suy đoán được đặt ra, nhưng người tính không bằng trời tính. Ông cứ nghĩ tất cả đã hoàn hảo, song không ngờ rằng có một ít trà trong chung trà của ông đã rơi vào kẽ hở của bàn. Vì không thể khô nhanh chóng được nên cuối cùng nó vẫn bị phát hiện. Cũng nhờ Ngô Tiệp dư tùy cơ ứng biến, dùng kế dựng địa ngục giả mới khiến ông không đánh mà khai.
Hoàng thượng dõng dạc:
- Đất nước chúng tôi tuy nhỏ bé, nhưng trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng không để ngoại bang mượn cớ gây chiến. Sinh linh đầu tháng, máu chảy thành sông, đó là kết quả của những cuộc chiến vì sự ích kỉ của bậc đế vương. Nhắn lại với hoàng đế Minh triều các ngài, chúng tôi vẫn muốn hai quốc gia tiếp tục giữ vững nền hòa hiếu. Chúng tôi sẽ không làm khó dễ ngài, mong ngài nên biết lấy đại cuộc làm trọng. Chuyện hôm nay coi như là một bài học dành cho ngài.
Sứ giả ngượng đỏ cả mặt, nhưng vẫn cố gắng biện hộ:
- Các người muốn tìm ra sự thật thì tôi không nói, nhưng các người làm vậy chẳng khác gì sỉ nhục sứ thần.
Dương phi cũng chẳng nhịn:
- Đã làm chuyện sai trái, không những không hối lỗi mà còn chấp mê bất ngộ.
Nguyễn Trãi thấy vậy vội đỡ lời:
- Đã là người thì không ai là không phạm sai lầm, điều quan trọng là có biết sửa sai hay không. Việc ngài làm không chỉ trái với thiên đạo mà còn nghịch với nhân lí. Chúng tôi làm thếnày là để ngài tự nhận ra khuyết điểm mà sửa chữa, so với việc chúng tôi thẳng thừng đứng ra chỉ trích ngài, cái nào tế nhị hơn?
Sứ giả im lặng hồi lâu, gương mặt cũng bớt phần phẫn nộ. Nguyễn Trãi tiếp:
- Muốn người ta không biết, trừ khi mình đừng làm. Nếu là sự thật thì sớm muộn gì cũng sẽ bị phơi bày. Chân lý này mong ngài hiểu.
- Trời không còn sớm nữa, ngài hãy về nghỉ ngơi để sáng ngày mai còn lên đường. - Hoàng thượng nói, vẻ thân thiện.
Sứ giả cúi đầu quay bước đi. Một cánh hoa rơi, lặng lẽ đậu trên vai ông. Tiết xuân cũng làm lòng người vơi bớt nỗi ưu tư. Nhân chi sơ tính bổn thiện, bản tính sứ giả không xấu, chẳng qua chỉ mù quán trong một lúc nhất thời. Đâu đó thoang thoảng trong không gian, ông vẫn cảm nhận được hương rượu nồng đượm hòa lẫn với tiếng đàn đêm khuya vắng.
Ngày tết đến là ngày mà toàn thể người dân Đại Việt ai cũng háo hức chờ đón. Khắp thành Thăng Long hoa cỏ đua nhau khoe sắc. Người thì mua lễ phẩm, người đi chùa cầu bình an, tiếng cười nói rôm rả cả chốn kinh thành. Những ông đồ ngồi nép vào một góc, hí hoáy viết chữ lên tấm liễng đỏ, nét chữ đẹp khiến ai cũng phải trầm trồ. Vào dip này, những tài tử giai nhân lại cùng nhau ước duyên thề hẹn, dập dìu xiêm y lộng lẫy. Cứ khoảng chiều 30 Tết, khói bếp của từng nhà nghi ngút bay lên, người ta quây quần bên nồi bánh chưng xanh, chuẩn bị để đón giao thừa.
Trong hoàng cung, ngày Tết cũng vui thú không kém. Ngày lập xuân, nhà vua mở yến trong Đại Nội. Toàn bộ bá quan văn võ làm việc tại kinh đô đều y phục chỉnh tề, cài hoa lên đầu vào Đại Nội dự yến. 28 tháng chạp, hoàng thượng ngự long giá, các quan mặc triều phục theo phò tá hai bên. Long giá đi đến tế lễ ở đền Đế Thích ngoài thành Thăng Long. Ngày 30 Tết, hoàng thượng ngồi giữa cửa Đoan Củng, các quan đến hành lễ rồi vào xem diệu vũ. Buổi tối, hoàng thượng lại qua cung Động Nhân, bái yết Tiên Vương. Đêm ấy, có đạo thầy tu vào chánh điện làm lễ Khu Na. Sau đó, tất cả những người trong hoàng cung đều hội tụ ra sảnh, có bày biện mọi thức ngon vật lạ, cùng nhau đối thơ, xem múa hát. Đến nửa đêm thì cùng vui vẻ đón giao thừa, uống chung rượu quý, bước qua lò than hồng để xua đuổi mọi xuôi quẫy trong năm qua, cúi đầu hành lễ với đất trời để cầu một năm mới tốt đẹp. Ngày mồng 1 Tết, vào khoảng canh 5, hoàng thượng ngồi trên điện Vĩnh Thọ, các quan cận thần làm lễ hạ rước, rồi vào cung Trường Xuân, vọng bái các lăng tổ. Buổi sáng sớm, hoàng thượng ngồi trên điện Thiên An, các phi tần sắp lớp ngồi bên dưới, các quan đứng trước điện, chơi các bài nhạc trước đại đình. Các bề tôi sắp thành hàng bái hạ, ba lần rót rượu dâng lên. Xong xuôi, mọi người lên chầu và dự yến. Các quan nội thần ngồi hai bên ăn tiệc, đến trưa thì lần lượt ra về. Đến mồng 3 Tết, tổ chức lễ khai hạ, ăn yến xong thì để quan và dân lễ quanh các chùa miếu và du ngoạn các vườn hoa. Đêm Nguyên tiêu, người ta trồng những cây đèn ở giữa sân rồng, gọi là đèn Quảng Chiếu, thắp đến mấy vạn ngọn, sáng rực cả trên trời dưới đất, thầy tu đi quanh tụng kinh phật, các quan lễ bái, gọi là chầu đèn.
Sáng mồng 8, Dương phi và Ngọc Dao cùng tì nữ dạo quanh vườn thượng uyển. Ánh nắng mùa xuân lướt nhanh trên những đóa hoa, hương thơm ngào ngạt. Mấy chú cá vàng bơi lội tung tăng dưới hồ. Dương phi dừng lại ngắm nghía giây lát rồi quay sang Ngọc Dao:
- Ngay cả cá vàng xem ra cũng cảm nhận được hương vị của ngày Tết, vạn vật đều hân hoan phấn khởi.
- Mùa xuân là mùa của khởi đầu, hi vọng từ nay trong chốn hậu cung sẽ
không còn xảy ra lắm chuyện thị phi nữa.
- À phải rồi! - Dương phi đưa tay đỡ lấy một cánh hoa đào đang rơi xuống. - Mấy ngày nay Thần phi có tìm đến muội sinh sự không?
Ngọc Dao lắc đầu, một tay cúi xuống chạm vào mặt nước long lanh:
- Dạ không! Dù gì cũng là đầu năm mới, có lẽ tỉ ấy cũng kiêng kị, không muốn phiền hà!
- Có lẽ tỉ lo xa quá, tại lần trước muội giải được vụ đầu độc sứ giả, được hoàng thượng tin tưởng, chỉ sợ Thần phi không phục mà thôi.
Ngọc Dao nhoẻn miệng cười:
- Thật ra con người của Thần phi, theo như muội thấy chưa hẳn đã xấu. Nếu hai người có cơ hội giải tỏa nỗi lòng, muội nghĩ sẽ xóa đi thành kiến.
Dương phi biết rõ Ngọc Dao hiền từ, nhưng không có nghĩa là lúc nào cũng quá nhẹ dạ. Đối với nàng, bản chất ích kỉ, nhỏ nhen của Thần phi dường như đã ăn sâu vào trong xương tủy.
- Muội nghĩ quá đơn giản rồi! Muội bây giờ không phải là mục tiêu của ả, muội chưa thấy được hết tâm tánh ả đâu!
- Đều là người của hậu cung, muội chỉ muốn mọi người hòa thuận sống những ngày tháng vui vẻ. Cái gì là quyền lực, cái gì là địa vị, chẳng qua chỉ là hư ảo mà thôi!
Dương phi gật gù, buông lời nhận xét:
- Trên đời này hiếm ai có được suy nghĩ như muội. Nhưng hoàng cung đầy rẫy những thủ đoạn, muội nên cẩn trọng thì hơn.
- Muội sẽ ghi nhớ lời tỉ dạy!
- Sẵn đây tỉ cũng có quà muốn tặng muội. - Dương phi cười tươi quay sang người cung tì đứng bên cạnh. Cô ta mang ra một chiếc hộp đỏ có thêu hình hoa văn sặc sở. Dương phi mở nắp hộp, bên trong là một tượng phật Di Lặc, nét mặt rạng rỡ, hài đồng tinh nghịch ngồi xung quanh. Tượng toát lên ánh sáng thanh khiết, hào quang vô cùng quý phái. Dương phi nhìn Ngọc Dao rồi nói:
- Đây là tượng phật Di Lặc, được làm từ bạch ngọc do nước láng giềng gửi tặng. Người trung nguyên thương hay đặt tượng này trong nhà, ngày ngày thắp hương cũng bái, tin rằng sẽ mau chóng có quý tử.
Ngọc Dao ngắm nghía một lúc rồi hỏi:
- Tỉ tặng tượng này uội là...?
- Tỉ và Bùi quý nhân đều đã hạ sinh tôn tử, Thần phi cũng đang mang đế duệ, chỉ có muội là vẫn chưa có long thai mà thôi! Tượng phật này ngụ ý cát tường, mong rằng muội sẽ sớm hạ sinh một đứa trẻ bụ bẫm đáng yêu cho hoàng thượng.
Một đứa trẻ, đối với Ngọc Dao đó không phải là bùa hộ mệnh để đưa nàng lên ngôi vị cao sang như bao nhiêu cung tần khác thường nghĩ. Đó là kết tinh của tình yêu giữa nàng và hoàng thượng, nàng lại mơ màng nghĩ đến ngày đó, khi nàng và hoàng thượng cùng dắt tay đứa trẻ đi dạo vườn thượng uyển, hạnh phúc biết bao.
- Đa tạ tỉ tỉ. - Ngọc Dao đón nhận rồinhư sực nhớ ra một điều gì, nàng nói: - À! Muội có chuyện này muốn ngỏ ý, hi vọng tỉ tỉ không trách.
- Muội nói đi!
Ngọc Dao ngập ngừng:
- Cả muội và Bùi quý nhân đều được tỉ tặng quà, chỉ có Thần phi là chưa có, muội thấy... làm vậy không công bằng cho lắm.
Nghe nhắc đến Thần phi, Dương phi như cụt cả hứng. Nàng quay phắt người, đáp:
- Không phải chưa có, mà là tỉ không muốn tặng.
- Năm mới tỉ cũng nên bỏ hết mọi chuyện không vui đi, đừng nhớ đến nó làm gì! Một món quà không đáng là bao, nhưng tỉ sẽ khiến người ta nể phục.
Trong hậu cung, người Dương phi thân thiết nhất là Ngọc Dao, người nàng tin tưởng nhất vẫn là Ngọc Dao. Nghe Ngọc Dao nói cũng có lí, Dương phi chần chừ hồi lâu rồi lên tiếng:
- Thôi được, coi như nể mặt muội vậy!
- Ngô tiệp dư, có Nguyễn Trãi đại nhân cầu kiến, hiện đang đợi ở cung của người! - Một tên thái giám chạy đến, cúi đầu kính cẩn.
- Được rồi, ngươi đi làm việc đi! - Rồi Ngọc Dao cúi chào Dương phi. - Muội có việc phải về cung, xin cáo lui trước.
- Ừm! - Dương phi mỉm cười, nhìn theo bóng Ngọc Dao khuất dần sau rặng anh đào. Đâu đó vẫn thoang thoảng mùi hương của các loại mức quý hiếm nhất cung đình. Nàng rảo bước quanh hồ, tiếp tục thưởng hoa.
******
Nguyễn trãi đã ngồi đợi Ngọc Dao tự lúc nào, vừa nhìn thấy bóng dáng của nàng, ông đã cung kính:
- Tham kiến nương nương!
- Nguyễn Trãi thúc thúc không cần phải đa lễ, cứ xưng hô như hồi trước khi cháu nhập cung. - Ngọc Dao bước đến, vẻ rạng rỡ. Nguyễn Trãi hơi ngần ngại:
- Nhưng là bậc quân thần, sao có thể xưng hô như vậy?
- Nơi này không phải là chánh điện, cũng không phải đang đứng trước mặt bá quan văn võ, hãy cứ tự nhiên. Mời thúc ngồi!
Nguyễn Trãi khoan thai ngồi xuống. Ngọc Dao bắt đầu hỏi chuyện:
- Không biết thúc thúc muốn gặp cháu có chuyện gì?
- Cũng không có gì quan trọng, chẳng qua ngày trước ta với phụ thân cháu là bạn tri âm. Ngày ông qua đời đã gửi gắm cháu cho ta, mà dạo này nhiều việc bận quá nên cũng không có dịp thăm hỏi, ta chỉ muốn biết trong hậu cung cháu sống như thế nào?
Ngọc Dao mỉm cười:
- Cuộc sống nhàn hạ, mọi người xung quanh ai cũng quan tâm cháu, đối với cháu như thế là quá tốt rồi.
- Nhưng ta thấy Thần phi dường như...
- Tỉ ấy chỉ có chút thành kiến với cháu thôi, nhưng cháu tin rồi mọi chuyện sẽ đâu vào đấy!
Nguyễn Trãi gật gù:
- Ta hiểu. Nhưng cháu cũng đừng nên quá chủ quan. Hậu cung tranh sủng không phải là chuyện xưa nay hiếm thấy, phải biết cố gắng giữ mình.
- Dạ vâng! À, mà sao dạo này cháu không thấy tam phu nhân(*) vào hoàng cung?
- Bà ấy bận tiếp mấy người họ hàng bên ngoại. Được hoàng thượng ban tước lễ nghi học sĩ, bà ấy cũng rất muốn góp sức cho triều đình.
Ngọc Dao nâng một tách trà lên miệng uống rồi nói:
- Tam phu nhân tinh thông kinh sử, tài trí thông minh, quả thật là một nhân tài của Đại Việt. Mà dạo này thúc có nghe đồn đại một số chuyện kì lạ bên ngoài thành không?
- Chuyện gì? - Nguyễn Trãi thắc mắc.
- Đáng lẽ cũng không nên chú ý, chỉ có điều nó có liên quan đến vận mệnh của hoàng tộc.
- Chuyện thế nào vậy?
Ngọc Dao nhìn vào khoảng không mông lung như để gợi nhớ lại câu chuyện, nàng nói:
- Ở một ngôi làng ngoài thành có một cô gái bị câm từ nhỏ. Nhưng rồi đến một ngày, khi thấy quan quân của triều đình đi ngang, cô ấy đã cất tiếng nói, và lời nói đầu tiên là một lời tiên đoán.
- Lời tiên đoán?
- Đúng! Cô ấy bảo rằng hoàng cung rồi đây sẽ chìm trong loạn lạc, máu chảy đầu rơi, tiếng khóc than thấu tận trời xanh. Quan trấn giữ vì không muốn phiền hà nên đã xử trảm, đáng sợ là khi đầu đã lìa khỏi cổ rồi mà mắt vẫn chớp, miệng vẫn hét vang chữ "máu" rồi mới chết.
Nguyễn Trãi cười khì:
- Tất cả chỉ là đồn đại. Ta đã từng gặp những chuyện li kì thần thánh thế này rồi, nhưng ta tin mình có thể làm chủ số mệnh.
- Bởi vậy hoàng thượng vì sợ mọi người đem lòng hoang mang nên mới không tiết lộ chuyện này, có lẽ trong hoàng cung cũng không ai biết.
Nguyễn Trãi biết rõ Ngọc Dao rất nhạy cảm với những chuyện như này, nhưng ông thì không muốn nhắc đến, trong hoàng cung càng kín tiếng bao nhiêu thì càng tốt, một lời nói phát ra không biết có bao nhiêu hiểm họa rình rập, ông chỉ muốn tốt cho Ngọc Dao. Ông nhìn bâng quơ rồi chuyển sang việc khác:
- Năm mới cũng không nên nói nhiều đến những chuyện xui xẻo thế này làm gì, lần trước cháu có nói với ta là cháu muốn ăn món dưa hành do chính tay nhị phu nhân làm, bà ấy đã đích thân làm gửi cho cháu đây. - Nguyễn Trãi vừa nói vừa mang một hũ nhỏ đặt lên bàn.
Ngọc Dao tươi cười rồi trầm ngâm giây lát:
-
Sống trong hoàng cung ăn toàn cao lương mĩ vị, đôi khi lại thèm chút phong vị thôn quê. Ngày trước, món cháu thích ăn nhất là món dưa hành do nhị phu nhân làm, bây giờ mới được thưởng thức lại.
- Thấy cháu sống tốt ta cũng vui, phụ thân cháu dưới suối vàng cũng có thể thấy lòng thanh thản. Sự đời biến chuyển khó lường, đôi khi mình muốn tĩnh nhưng lại phải động, muốn có cuộc sống an nhàn nhưng lòng thì đau đáu nghĩ đến non sông, để rồi trở lại chốn quan trường, bao nhiêu mưu đồ vẫn luôn ngấm ngầm đe dọa. Sống trong hậu cung, đừng nên quá nhẹ dạ, không phải ai cũng tốt như mình nghĩ đâu.
- Cháu sẽ đề phòng. Nhưng chỉ cần lòng kiên định, có lẽ sẽ không thứ gì quật ngã được mình.
Nguyễn Trãi ghé mắt nhìn ra cửa, ánh nắng đã chuyển dần sang buổi trưa, vàng rực.
- Thôi cũng trễ rồi, ta phải về! Cáo từ! - Nguyễn Trãi đứng lên đĩnh đạc bước ra cửa.
- Cho cháu gửi lời thăm hỏi đến mọi người! - Ngọc Dao nói vọng theo.
Nguyễn Trãi cười không đáp, lặng lẽ bước đi. Trời se lạnh, ánh nắng vẫn cố truyền ngọn lửa ấm áp của mình xuống mặt đất. Ngoài kia, vạn vật đang đâm chồi nảy lộc. Nụ hồng quấn quýt bên đóa hoa vạn thọ, ra vẻ đuổi xua nhành mai đang ghé xuống, nhịp sống tràn ngập khắp nơi, sự bắt đầu của một mùa xuân.
(*) Tức Nguyễn Thị Lộ, bà được hoàng thượng phong tước lễ nghi học sĩ vì có tài năng thơ văn khá uyên bác
Đêm xuân lặng lẽ buông dần, phảng phất cơn gió nhẹ kéo theo những cánh hoa rơi lã tã. Một tiếng đàn tì bà văng vẳng, quyện theo gió lướt nhẹ qua các cành cây. Tiếng đàn ấy có chút gì phẫn uất,càng lúc càng dồn dập, gấp gáp rồi vỡ ra bằng một âm thanh cao vút. Tiếng đàn ngưng bặt, và người ta biết nó phát ra từ phía phòng của Thần phi.
- Nương nương, tiếng đàn của người nghe ai oán quá, người đang buồn bực chuyện gì sao? - Ả cung tì gặn hỏi, bẽn lẽn khép cánh cửa phòng lại.
- Liên quan gì tới ngươi, nhiều chuyện quá!
Ả cung tì biến sắc chẳng dám nói thêm nửa lời, im lặng rót một chung trà dâng cho Thần phi. Có tiếng gõ cửa bên ngoài, Thần phi hỏi vọng ra:
- Ai đấy?
- Là tỉ đây, tỉ vào được chứ?
Nghe giọng nói, Thần phi biết đấy là Dương phi. Nàng cười nham hiểm, đôi mắt liếc xéo, lên tiếng:
- Vào đi!
Dương phi cùng tì nữ bước vào, thần sắc rạng rỡ, khẽ mỉm cười:
- Dạo này không có dịp để thăm hỏi muội muội, tỉ thân là thống lĩnh hậu cung, làm vậy có phần không phải, dù gì thì cũng là những ngày đầu xuân, chũng ta cũng nên bỏ hết mọi chuyện hiểu lầm trước đây.
- Tâm ý của tỉ tỉ muội xin ghi khắc, nhưng hiếm khi tỉ đại giá quan lâm đến đây, chắc là hôm nay trời sắp bão.
Biết Thần phi đang cố tình chọc tức mình, Dương phi vẫn cố tỏ ra điềm đạm:
- Muội hiểu lầm ý tỉ rồi, tỉ hoàn toàn có ý tốt. Vả lại muội đang mang long duệ của hoàng thượng, sao tỉ có thể không quan tâm.
- Phải rồi! Tỉ tất nhiên phải quan tâm! Ngôi thái tử. -