Tiếng đàn núi
Tiếng đàn núi
Bà vợ nằm bên trong ngăn vách phì cười bảo: "Ông điên mất rồi à ..."
Ông Sơn càng thấy bực hơn nhưng nghĩ lại câu nói của mình cũng hơi buồn cười.
Đời ông quanh năm làm lụng vất vả, suốt hơn nửa cuộc đời ông gắn liền với việc lên nương ngửi đất, ngửi cỏ ngắm giun, khom lưng đội mưa nắng, cuộc sống vẫn đói nghèo vậy. Thương đau bệnh tật gắn liền với kham khổ đều dồn đến với ông nên trông ông già trước tuổi cũng là lẽ thường. Thời gian cứ trôi theo màn đêm rồi gà đã gáy canh hai canh ba ông vẫn chưa thể chợp mắt được giây phút nào, ông rên rỉ lăn đi lăn lại làm cho giát giường nứa kêu kèn kẹt, ông nhớ đến cái chum đất nung đặt ngoài chân vách hình như vẫn còn rượu, ông dậy thắp đèn dầu đi múc một bát uống vài ba ngụm rồi múc đầy bát mang đặt để đầu giường với ý định ngậm dần cho tê mồm tê miệng để giảm đau. Vừa buồn ngủ vừa mệt nên được vài ngụm rượu phê phê cộng với ngụm đang ngậm trong mồm tê lợi tê lưỡi nên ông cũng thiếp đi. Ngụm rượu trong mồm nóng dần lên rồi cái đau trở lại làm ông thức tỉnh và nhổ ngụm rượu rồi ngậm lấy ngụm khác, cứ thế ông ngậm từ ngụm này đến ngụm khác mà trời vẫn chưa sáng, đôi khi ông vừa thiếp đi thì miệng hở làm rượu chảy ra ướt cả chiếu mà ông vẫn chưa được giấc nào lành bực quá ông nảy ra ý định xử lý chiếc răng cho khỏi đau nhưng không biết giải quyết bằng cách nào cho hợp lý. Ông nhớ hồi cha ông còn sống có kể đã từng xử lý chiếc răng bị đau bằng cách dùng đầu đũa đục thẳng vào lỗ rỗng của chiếc răng cho vỡ ra từng mảnh vứt đi nhưng chảy máu rất nhiều, nghĩ đến phương pháp của cha có vẻ không ổn nên ông dùng vỏ cây bo buộc thắt chặt chiếc răng đau, đầu dây còn lại buộc vào chiếc đũa sử dụng chiếc đuã theo kiểu đòn bẩy để bẩy nhổ răng nhưng không thành công vì lần thì bị tuột, lần thì gãy đũa ông lại nghĩ cách khác. Ông nghĩ sẽ dùng dùi sắt đốt nóng dí thẳng vào chiếc răng làm chiếc răng nóng lên sẽ làm con sâu răng bị chết, ông đứng dậy chui ra khỏi màn cầm chiếc đèn dầu đi về phía bếp, phần vì thiếu ngủ mệt mỏi hoa mắt phần vì say rượu nên ông loạng choạng vấp vào thanh củi gần bếp và ngã sõng soài chiếc đèn dầu quăng xuống đất tắt ngóm, ông lổm ngổm bò dậy sờ trong túi áo lấy túi thuốc lá kiếm bao diêm quệt cháy soi tìm chiếc đèn, chiếc đèn đã vãi hết dầu ra nền nhưng may chưa bị vỡ. Ông tìm chai dầu hỏa ở bên chân vách đổ vào đèn rồi tiếp tục công việc tìm cách phá chiếc răng sâu. Ông nhóm bếp đốt nóng dùi rồi đi kiếm mảnh gương giắt bên vách để soi nhìn và dí dùi vào răng, khi dí ngọn dùi chưa tới răng thì ông chợt thấy có cái gì đó vừa lạ vừa quen cứ ẩn hiện trong mảnh gương, hình như có cả người mặc áo tang trắng bốp làm ông giật mình. Ông nhìn kỹ mới biết đó là bức tranh của thằng Minh con trai ông treo ở gần đầu giường khiến ông phải tò mò.
Quanh năm bận rộn với công việc, thời gian ông cũng chỉ tính bằng mùa nương rẫy, hai vợ chồng ông một chữ bẻ đôi không biết nên từ khi con trai đi học lên cao Nhà trường biếu lịch Tết hai vợ chồng ông cũng chẳng ngó tới làm gì. Nghe nói con trai đi học có tham gia thi vẽ ước mơ gì đó được giải thưởng, dịp Tết nó về quê có mua tặng ông một đôi giày cao cổ làm quà để cho ông đi rừng cho tiện, ông còn bảo mày đi học thiếu tiền tiêu ăn học còn mua giầy cho tao làm cái gì cho tốn, nói vậy nhưng ông cũng cất đôi giầy cẩn thận để lúc đi đây đi đó còn có cái mà xỏ chân, ông chẳng quan tâm Bàn Minh đã vẽ gì như thế nào mà được giải gì đó, ông chỉ biết tờ giấy đó thằng con phô tô mang từ đâu về treo ở gần đầu giường ông, giờ tình cờ nhờ có mảnh gương nhỏ bé cũ kỹ trên tay soi phản lại mới làm ông để ý và phát hiện trên tờ giấy ấy hình như có người mặc áo tang lại còn treo gần đầu giường ông nữa làm ông phải giật mình, ông nghĩ nếu thằng Minh mà vẽ trang phục tang lễ treo ở đó thật thì ông sẽ xử lý cái thằng bố láo này một trận. Đang băn khoăn ông cúi xuống nhìn chiếc dùi đã từ màu đỏ trở lại màu nâu chì, ông đặt mảnh gương và chiếc dùi xuống cạnh bếp, cầm chiếc đèn dầu lại gần ngắm kỹ bức tranh thì mới nhận ra khung cảnh trong đó chính là quê hương làng bản của ông, ông chỉ nhận ra khung cảnh đồi núi quen thuộc xung quanh còn làng bản thì có những ngôi nhà khác có những con đường khác, hình ảnh người mặc áo trắng mà ông tưởng áo tang thì đang cầm xi lanh và những lọ thuốc Tây trên tay đi bên cửa của ngôi nhà xây, nhìn xuyên qua song cửa sổ thấy bên trong ngôi nhà có những bóng điện và cánh quạt gió treo trên trần, bên cạnh những ngôi nhà ấy có cả cột sắt cao và nhọn hoắt mà ông nghe người ta nói là cột chống sét gì đó như ông đã từng thấy ở thị trấn. Ngoài ra còn có những ngôi nhà xây khác có cột cờ cao, lá cờ đỏ sao vàng năm cánh đang bay phấp phới ở đầu sân, giữa sân có những đứa trẻ mặc áo trắng đeo khăn quàng đỏ xếp hàng ngang hàng dọc chỉnh tề. Có đường cái đi qua giữa bản và có cả ô tô đang chạy, có dây điện kéo từ các cột xi măng xuống mọi nhà, trướccửa mỗi nhà đều có xe đạp, xe máy, có bể nước làm bằng xi măng...
Ông ngắm bức tranh mà ngớ người ra, chiếc răng đang đau tự nhiên như cái đau biến đâu mất. Ông nghĩ chắc thằng Minh muốn làng bản hiện tại thay đổi như trong bức tranh? Đúng là cái thằng đẻ thiếu tháng làm cho mình bất ngờ, hồi mẹ nó mang bầu do ăn uống thiếu thốn nó mới được bẩy tháng mà đã đẻ non cứ tưởng nó sẽ không sống nổi thế mà giờ nó làm những điều mình không thể nghĩ tới. Các em của nó và những người cùng lứa với nó đã làm bố làm mẹ hết rồi, còn nó đã hơn hai chục tuổi mà không chịu lấy vợ ai ai cũng đồn là ế vợ rồi thế mà nó cứ bỏ ngoài tai và quyết tâm đi học mãi. Thảo nào nó bảo vẽ ước mơ gì đó. Cũng may là nó vẽ chứ nó viết thì ông cũng chẳng biết đọc. Ông lẩm bẩm: "Bấy lâu nay ai cũng nghĩ học làm cúng tế còn kiếm được miếng ăn, ngụm uống chứ học chữ nhiều thì cũng chỉ tốn công sức mà cái chữ chẳng ăn được. Thì ra mày lại nghĩ khác, vậy là tao hiểu rồi. Thế thì mày cứ học đến già kệ mày vậy...".
Trong chuồng gà trống lại vỗ cánh gáy canh tiếp theo, trời tờ mờ sáng ngoài rừng chim bắt đầu cất tiếng báo hiệu một ngày mới. Cơn gió nhẹ thoảng bay qua làm ngọn đèn dầu trên tay ông lắt lay rồi tai ông như ù đi và ông nghe như đâu đó "tiếng đàn núi" lại văng vẳng ngân lên như gần như xa.
Bàn Hữu Tài