Polaroid
Truyện Ngắn - Lễ Hội Ăn Mày

Truyện Ngắn - Lễ Hội Ăn Mày

Tác giả: Sưu Tầm

Truyện Ngắn - Lễ Hội Ăn Mày

hội bắt đầu. Mọi người ăn mày vào mâm. Muốn ăn gì thì ăn, muốn ngồi mâm nào cũng được, vừa ăn vừa hò hát bất cứ bài gì, câu gì mình thích. Lạ một điều là trong suốt quá trình lễ hội, những người ăn mày, già trẻ, con nít… họ đều từ tốn không hề tranh ăn cướp uống, đàng hoàng và đĩnh đạc như ăn cỗ ở nhà mình vậy. Rồi đốt pháo, rồi khoác lên mình nhau những vật cầu may đầu năm mà dân làng đã dành cho họ, rồi chúc tụng nhau mong cho nhau được mạnh khỏe được mau chóng thoát khỏi cảnh đầu đường xó chợ, sống có cửa nhà, có cái ăn có cái để… Người lớn thì vậy còn trẻ con ăn mày thì tụ tập lại một góc, chơi nhảy lò cò, kéo co, chồng búp chồng bông, tập vồng vông tay không tay có… Những trò chơi dân dã, bình thường mà bất cứ trẻ con nào cũng có quyền được chơi…
Chờ cho người ăn mày cuối cùng no nê rời khỏi bãi chợ Cồn, cụ già chủ lễ mới gióng một hồi chiêng báo hiệu tan hội. Lúc bấy giờ, các gia chủ trong làng mới ra dọn dẹp mâm bát của mình mang về.
Từ tối mồng một, gia đình mẹ Truyến - người làng đều quen gọi là bà Hương, theo chức sắc của chồng bà - đã sửa soạn cho mâm cỗ lễ hội ăn mày. Bà sai Đào và Quý, hai chị em sắp sửa mọi thứ để gánh ra chợ Cồn. Là gia đình vào loại vai vế, giàu có trong làng, năm nào cỗ ăn mày của bà cũng to nhất nhì làng. Chợ Cồn cách phía sau khu vườn nhà bà không xa. Đứng ở cuối vườn, có thể

thấy khá rõ người đi lại, ăn uống, vui chơi.
Sau khi gánh cỗ ra bày biện vào mâm xong, hai chị em Đào, Quý về nhà. Nghe tiếng chiêng gióng, Đào rủ Quý ra vườn sau.
Lần đầu tiên trong đời thấy quanh cảnh lễ hội ăn mày diễn ra, lòng cô gái chợt bừng lên một cảm giác khó tả, bâng khuâng, buồn nhớ, thương tiếc… Những hồi niệm xa gần hiện về trong đầu cô, cái đêm hãi hùng giữa mênh mông đầm phá, rồi lễ cúng Thần Đầm, hợp hôn dưới nước với người chồng vừa như bắt buộc vừa như tự nguyện, rồi sinh nở, rồi thật sự gắn bó với đầm phá, tưởng như không thể di dời… Vậy mà… ôi cái đêm bồng con bơi vượt phá, vừa liều lĩnh vừa hy vọng, rồi lên bờ gặp được bà Hương, rồi cuộc đời bỗng rẽ ngoặt, thực mà ảo, đời như tiên, nào mẹ nào em gái anh trai, con nuôi mà chẳng khác chi ruột rà, chẳng máu mủ mà con hơn máu mủ…
Đang miên man thả lòng theo dĩ vãng, Đào bỗng giật thót. Bóng một người ăn mày dắt theo đứa con trai đang lách đám đông đi vào giữa lễ hội. Anh ta đội chiếc nón cời, đóng khố lá tọa trước bụng, chiếc bao gai đã rách mướp quàng trên người, tay chống chiếc gậy cong cong sần sùi. Trời, cái lưng khòm khòm như lưng rùa kia thì không thể lẫn được, còn ai vào đó nữa trời! Thằng con trai như có lớn hơn một chút, trần truồng, nhem nhuốc đang nắm tay cha vừa đi vừa ngó nhìn đây đó. Khác với những đứa trẻ con khác, nó không hề nhìn vào các mâm cỗ mà lại lia đôi mắt von vót hình đuôi cá chình xoi mói vào mặt người này, người nọ như thể đang tìm kiếm cái chi.
Đào ôm ngực, một mũi kim nhọn như đang ngọ ngoạy trong tim cô, cô bước vào nhà lòng rung lên dữ dội.
- Chị Đào, chị làm sao vậy? - Quý gọi giật.
- Không sao cả, chị hơi nhức đầu. Quý cứ ở đó xem, chị vào lấy dầu xức, chốc sẽ ra!
Đào loạng choạng như người say sóng. Bước thấp bước cao, cô vội vàng nhào tới ôm chập lấy đứa con gái đang nằm chơi trên sập vớibà, bế vào buồng trong. Bà Hương ngơ ngác:
- Có chuyện gì vậy con?
- Dạ không có chi. Con hơi nhức đầu chóng mặt một tí thôi!
Trong lúc bà Hương như linh tính mách bảo, bước vội ra góc vườn sau thì trong buồng Đào nằm vật ra, nước mắt đầm đìa mặt gối. Cô ư ử rên: "Con ơi! Anh ơi!... trời xui đất khiến thế nào mà cha con giả làm ăn mày lần mò được đến đây? Con ơi! Con nhớ mẹ, trách mẹ lắm phải không? Mẹ lầm lỗi rồi, mẹ nỡ bỏ con mà đi, trời phật ôi… Trên mặt đầm phá kia, mẹ đã qua bao nhiêu đắng cay ngọt bùi, bao nhiêu nước mắt mẹ đã đổ xuống, bao nhiêu nụ cười mẹ đã vớt lên, vậy mà mẹ đành đoạn, mẹ nhấn chìm… Thuyền nốc đâu rồi, chèo lưới đâu rồi, sóng nước đâu rồi… anh ơi! Mẹ Hương ơi! Em Quý ơi, anh Truyến ơi, em biết làm sao bây giờ, sao anh không về bảo cho em biết với…?"
Đào quằn quại, giằng xé, nỗi niềm rối như tơ vò. Cô nằm liệt giường sau đó.

7. Người già thường yêu trẻ con, con bé gái của Đào quả đã làm cho bà Hương thỏa mãn tình cảm bà cháu. Bà chăm sóc, dạy dỗ và sắm sửa cho con bé đủ thứ, quần áo đồ chơi, kể cả những thứ đắt tiền phải gửi mua tận trên phố tỉnh, mặc dù con bé mới chập chững biết đi. Hai bà cháu cứ ríu rít cả ngày trong nhà ngoài sân, tiếng cười, tiếng nựng cả già trẻ như không lúc nào vắng.
Vậy mà lâu nay, sau lễ hội ăn mày, bà bỗng đâm ra tư lự. Không biết bà suy nghĩ điều gì mà thỉnh thoảng bà đi ra đi vào, ra chiều bứt rứt không yên, có lúc bà nhìn hai cô con gái một đẻ, một nuôi chằm chằm như thể đang so đo, lượng định, rồi bà nhè nhẹ thở dài, vừa lấy cau trầu ra giã vừa nhai chầm chậm. Vô tình bà ngước nhìn lên bức hoành phi treo trên xà: Truy viễn đường. Bức hoành phi này được để lại từ thuở ông nội của chồng bà. Tìm nhà xa! Có sự ngẫu nhiên huyền bí gì đây chăng? Tìm nhà xa! Ôi! Bà chạnh nỗi lòng, gọi:
- Đào ơi!
- Dạ!
- Con dọn dẹp xong chưa, lên đây mẹ bảo!
- Dạ rồi, con lên ngay đây.
Quý vừa đi học về, chạy vào nhà, quẳng ra ván một cuốn vở, nói ào ào:
- Chị Đào! Chị làm bài luận này thử coi! Mà chị dạo này nhác lắm nghe, không chịu học, viết gì cả, anh Truyến về em mách, anh mắng cho!
Đào tay nách con tay cầm cuốn vở giở ra xem, mỉm cười gật gật:
- À đề ra cũng khó đấy. Nhưng được rồi, chị sẽ làm. Rồi Quý chấm cho chị nghe!
Bà Hương nhìn thấy quang cảnh ấy, cảm thấy cay cay nơi sống mũi. Điều bà định nói với Đào bay đâu mất. Bà chợt nghĩ đến Truyến. Dường như anh con trai bà không dửng dưng với quãng đời trước đây của cô gái đầm phá này, và càng không bỏ qua những gì thay đổi nhanh chóng của cô. Có điều chi đó khác lạ trong tình cảm, nếu không thì tại sao lại chịu khó dạy chữ cho cô, việc mà cô có thể nhờ Quý, người gần gũi hơn, thuận tiện hơn? Và bà nữa, điều gì khiến bà đồng tình với việc làm của con trai bà đối với cô gái? Phải chăng chỉ là tình thương con đơn thuần của một người làm mẹ?
Bà day dứt với tình cảnh hiện tại của Đào. Một cô gái bỏ chồng con ra đi, dù thế nào đi nữa, cũng là chuyện không nên, ít ra là chuyện bất đắc dĩ. Một ngày là nghĩa, một đêm là tình! Nhưng còn bố mẹ cô, quê hương cô, có lẽ nào đó lại không phải là con đường hiếu nghĩa mà cô phải tìm về, phải báo đáp? Giữ cái nghĩa này, bỏ cái nghĩa kia đâu phải là chuyện hay ho. Phải làm sao cho vẹn cả đôi bên chứ!
Đã mầy lần bà thu xếp nhưng rồi lần lữa không muốn để Đào ra đi. Cũng là vì mẹ con cô ấy nữa. Không biết rồi có tìm được quê không, hay lại sa cơ lần nữa. Đường đời bất trắc biết đâu mà lường!
Tự sâu trong lòng, bà yêu thương Đào như con đẻ, phải dứt bỏ tình cảm đó, bà thấy đau đớn như mất đi người ruột thịt. Nhưng cứ giữ mãi cô ở lại, liệu bà có được yên ổn trong lòng, mặc dù vậy, cuộc đời cô gái sẽ có thể được đảm bảo hơn, sung sướng hơn, hạnh phúc hơn. Lâu nay bà để ý thấy mẹ con Đào hay tha thẩn ở góc vườn sau, lòng mẫn cảm của người mẹ đã đoán định được rằng tâm tư Đào đang bị dày vò, giằng kéo bởi đi hay ở, mà đi thì đi đâu?
Trở lại với chồng con vạn thuyền đầm phá hay tìm về nguồn cội cha mẹ để xây dựng lại cuộc đời đã một lần cơ nhỡ? Trong hai đường ấy, đường nào thuận lẽ hơn, hợp với nhân nghĩa hơn, trọn vẹn hơn. Nhưng mà, trong hai đường ấy phải chọn một, không thể chọn đường thứ ba là ở lại với bà. Nghĩ đến điều này bà Hương thấy lòng đau nhói…

8.Truyến tốt nghiệp vào loại ưu. Qua giới thiệu của một ông chú họ công chức lâu năm trong ngành đường sắt, anh được bổ đi làm ở một nhà ga tại Quảng Bình. Anh về quê nghỉ một tuần trước khi trở lại thành phố, lên đường đến nhiệm sở.
Trên con đường cát dẫn từ bến đò, nơi thắt lại của dòng sông nối liền với giang sơn đầm phá mênh mông và kỳ bí, Truyến rảo bước để kịp về nhà trước khi trời tối. Lòng anh hồi hộp như mỗi lần về quê thăm mẹ thăm em sau những ngày đêm chúi đầu vào đèn sách. Nhưng lần này anh tự phát hiện trong sâu thẳm lòng riêng, còn có một cái gì thoắt ẩn thoắt hiện làm anh gần như chơi vơi một cách dịu ngọt. Người con gái lạ lùng hơn một năm trước đây xuất hiện gần như bất ngờ ở nhà anh như một ngọn gió, một ngọn gió vừa quen thuộc lại vừa hoang vu như ngọn gió chướng thường thổi trên mặt đầm vào tiết chớm xuân. Ngọn gió ấy làm cho người ta thốt rùng mình vì hơi lạnh xa xôi nó mang về, vội khép lại tà áo. Cùng lúc là một nỗi khấp khởi gần như hy vọng về những ngày sắp tới tràn trề nắng ấm dịu

trong sự nấn ná của cái rét mùa đông.
Truyến bước vào cổng vườn quen thuộc có những thanh chắn bằng ống tre khô đã nhẵn bóng. Anh chăm chú nhìn như thể thấy được dấu tay người thiếu phụ trẻ vừa lạ vừa quen bao năm nay đã in lên đó. Bất giác anh mỉm cười, nhớ lại những cảm giác trong kỳ nghỉ hè vừa qua. "Không, không phải như thế!". Anh tự nhủ lẩm bẩm mà không biết mình đang nghĩ gì nói gì. Như một ánh chớp lóe lên trong đầu, Truyến ngừng bước, mắt anh chạm phải cành dạ hương bị gió đánh gãy rũ xuống bên cửa sổ. Không biết vì sao anh vụt nhớ đến một thiên truyện cổ bằng tiếng Pháp mà anh đã đọc đâu đó không còn nhớ tên nhan đề và tác giả của nó. "Một hoàng tử trong một buổi đi săn trong rừng gặp một người con gái điên. Chàng thương xót, đem về dinh riêng. Giấu vua cha, hoàng tử nuôinấng chăm sóc người con gái điên với tất cả tấm lòng nhân hậu quý báu của mình. Người con gái tưởng tượng hoàng tử là người tình của mình đã bị chia rẽ bao lâu khiến nàng trở nên điên dại. Hoàng tử do muốn đưa lại cuộc sống bình thường cho người con gái nên cũng không nỡ nói lên sự thật. Một ngày kia người con gái hết điên, cũng là lúc người tình của nàng xuất hiện sau bao nhiêu năm chàng ta lang thang khắp chốn tìm kiếm bóng dáng người yêu. Nhưng hỡi ôi, chàng ta bây giờ đã trở nên ngớ ngẩn do bị bọn dã tâm chia rẽ hai người đã hành hạ. Người con gái nửa muốn trở về với người yêu nửa muốn ở lại với hoàng tử, lúc này hai người đã chớm nở tình yêu. Hoàng tử biết chuyện, hết lời khuyên nàng trở về, mặc dù trong lòng chàng đau như dao cắt. Người con gái một ngày nọ ra đi với người yêu cũ, nước mắt nàng dài theo bước chân tiễn đưa của hoàng tử. Hoàng tử trở về dinh đau đớn và ngạc nhiên thấy nơi những giọt nước mắt nàng rỏ xuống đất bỗng mọc lên một hàng cây có những cành lá mềm tươi nhưng cứ rủ xuống, thướt tha mỗi khi làn gió lướt qua. Người ta sau này gọi cây đó bằng cái tên "cây liễu rũ".
Truyến bước vào nhà. Cảnh tượng đập ngay vào mắt anh là mẹ và em gái mỗi người ngồi một góc, đang trễ tràng làm gì đó, mẹ têm trầu một cách băn khoăn, bồn chồn, còn em gái thì đưa những nhát lược lên mái tóc với vẻ lười biếng, nhát gừng. Hai mẹ con lơ đễnh đến mức không nhìn thấy anh xuất hiện, bóng dáng cao và hơi gầy của anh che tối cả khung cửa ra vào. Anh lên tiếng:
- Mẹ, mẹ mệt à? Có chuyện gì phải không?
Quý ngước lên, òa khóc, chạy đến níu khuỷu tay anh trai:
- Ối anh đã về, chị Đào đã đi rồi, anh ơi!
- Đi đâu, hả. Đi đâu? - Truyến giật giọng.
Bà Hương thở dài, ra hiệu cho con trai ngồi xuống rồi điềm tĩnh, thẽ thọt, bà nói:
- Mẹ con nó về quê tìm lại bố mẹ anh em. Vậy là đã thấm thoát gần mười năm trời lưu lạc. Mẹ đã suy nghĩ nát nước nát cái ra rồi, Truyến ạ. Gia đình ta hơn một năm qua đã coi nó như là một người cùng dòng máu. Không ai muốn cắt chảy dòng máu của mình. Nhưng mà không được, con ơi. Trước sau gì rồi cũng phải lo liệu cho tròn đạo lý. Đã nhiều lần, nó cũng muốn thưa với mẹ, nhưng rồi tình cảm ngày một gắn bó, nó cũng lần lữa, đi không dứt, ở cũng không đành, dằn vặt, khắc khoải đêm ngày. Mẹ và em Quý cũng vậy, chuyện chưa tới thì chưa nên bàn, nhưng mà phần con, con đâu có phải như gió thổi ngoài đầm, mây bay trong núi… Nó ra đi mà bước chân nặng trĩu. Đêm qua bốn mẹ con bà cháu đã khóc hết nước mắt đó con ơi! Nó vừa đi lúc trưa. Phải chi con về sớm một buổi thì anh em đã gặp nhau rồi…
Truyến im lặng ngồi nghe, lòng buồn rười rượi. Hồi lâu, anh đứng dậy:
- Thưa mẹ! Cô ấy tìm về quê là phải. Con cũng biết thế nào cũng có ngày đó, con đã dự định rằng: Con về sẽ đưa cô ấy đi. Từ đây ra Ninh Bình đường sá xa xôi, biết điều gì trắc trở, khó khăn dọc đường sẽ xảy ra? Nhưng muộn rồi, tăm cá bóng chim, biết đâu…
Truyến ngừng, đi đi lại lại. Bỗng anh chụp vội mũ lên đầu, xách quai va ly lên:
- Thưa mẹ, mẹ hãy cho phép con đi tìm cô ấy, thế nào cô ấy cũng lên Huế để từ đó kiếm cách ra Bắc. Con sẽ tìm được cô ấy! Nhất định sẽ tìm được!
Truyến gấp gáp, vội vàng luống cuống, khác với bản tính thường ngày của anh.
Bà Hương nhìn con trai vừa lắc đầu vừa gật gật, trong lúc Quý trố mắt tràn đầy những hy vọng nhìn anh rồi lại nhìn mẹ, mồm cứ há ra…
Ngoài sân, chiều đã sậm. Những tia nắng cuối cùng trong ngày chiếu xiên từ các vòm cây vườn xuống, vẽ thành những đường chéo sáng vàng, run run theo làn gió nhẹ vừa lướt qua…

9. Chị quấn chiếc địu bà mẹ nuôi đã may cho thêm một vòng quanh eo lưng, buộc hai múi thắt lại. Có vẻ nhẹ hơn rồi! Con bé nằm trên lưng chị, y như nó nằm ngủ ở nhà, lúc nào cũng tay chân xoãi ra như con ếch đang bơi. Chị quay đầu nhìn chừng con. Nó đang liu riu ngủ theo nhịp chân mẹ dùng dằng trên đường về. Chị hình dung trong đầu khi chị bước chân vào mái tranh thân yêu ở quê nhà. Cha mẹ chị giờ chắc đã già thêm, nhà cửa ao vườn kỳ đói kém chắc đã trở lại xanh tươi mỡ màng. Gia đình chị không còn thất tán, lại trở về đông đủ sum họp như xưa. Dòng sông Hoàng Long quê chị vốn đậm đặc phù sa như đang vẫy gọi chị về.
Trời ngả về chiều. Đã qua một ngày chị rời mái nhà thân yêu không phải của chị mà còn hơn của chị. Ở đó, có biết bao kỷ niệm êm đềm, biết bao nỗi niềm sâu kín mà níu kéo, mà giằng co. Từ cái ngày lễ hội ăn mày nọ, bóng dáng chồng và con trai tưởng đã gửi lại, trả lại cho mù sương mặt đầm mỗi đêm dài thấp thỏm, cho trải nắng màn mây mỗi sáng mai đợi mong, bỗng trồi lên trong lòng chị vừa tan loãng, vừa như có hình khối rõ ràng. Chị đã muốn xóa đi tất cả, lãng quên để bước vào cuộc đời khác, nhưng là cuộc đời của chị, do chị định đoạt. Oái oăm thay, không những chị đã không thanh thản mà còn bị xáo động, bị đánh thức, những ngày gần đây nó còn làm rối tung cả những ước mơ đẹp đẽ của chị nảy sinh từ những tấm lòng như của bà Hương, anh Truyến…
Phải chăng chị trốn khỏi đầm phá là một sai lầm, hơn nữa là một tội lỗi? Vạn thuyền chị, chồng con chị nào có lỗi lầm gì mà phải gánh lấy nỗi đau mất mát? Dù bị bắt buộc nhưng giọt máu của chị đã rơi ra, giọt máu ấy cũng thiêng liêng như bất cứ giọt máu của người mẹ nào, trên cạn hay dưới đầm cũng là người mẹ, cũng là nỗi đau và hạnh phúc, sao chị lại dứt bỏ nó, từ chối nó?
Đã mười năm nay chị chèo kéo trên mặt đầm, lớn lên cùng sóng nước, thở theo nhịp thở của thủy triều lên xuống, con tôm, con cá đã là bạn bầu của chị, trời nước bao la đã là tầm nhìn của chị, màu nước sắc mây đã là dung nhan của chị, sao chị lại dễ dàng đánh mất…?
Đang bước nhanh, chị thốt dừng như bị một bàn tay nào đó níu lại. Chị ngồi xuống bên một gốc cây, cởi địu, lấy nắm cơm mà Quý đã vắt gói trong bẹ tàu cau lụa, bẻ một miếng cho con ăn. Con bé cười toe, ngọng líu cái giọng tập nói: "Măm măm mẹ, ùi!".
Đoạn đường dài với nỗi lòng lê thê suốt gần một ngày ròng rã đã làm chị mệt nhoài. Chị uống một hớp nước trong ống tre mang theo, hai mắt từ từ díp lại, chìm dần… chìm dần…
"…Lễ nhập vạn đò của dân chuyên sống trên mặt đầm phá diễn ra trên lòngthuyền, đơn độc giữa vời phá mênh mông. Bốn phía là trời là nước, nước và trời. Bến bờ chỉ là những sợi chỉ mong manh, mờ mờ tít tắp, tưởng như chèo hàng tháng hàng năm mới tới.
Người nhập vạn giờ đây là chị, một cô bé mười

ba tuổi.
Một chậu nước đặt ở ván đầu mũi thuyền, nơi vẫn diễn ra các tập tục riêng biệt của người dân đầm phá. Trong chậu, lượn lờ một con tôm, tượng trưng cho bản mệnh người nhập vạn. Cá tràu hoặc cá ngạnh là tượng mệnh người trai. Con bống hoặc con tôm là tượng mệnh cho người gái. Trên mũi thuyền, con sào chống vát lên thành góc chéo trên chỗ bịt sắt buộc một dải vải đỏ bỏ thõng hai múi, tượng trưng cho sức mạnh dân vạn đầm, hai mái chèo gác hai bên chìa ra khỏi lòng thuyền theo hình vây cá, tượng trưng cho lòng chung thủy với nghề sông nước.
Cuộc hành lễ đơn sơ mà tráng lệ. Ông già cởi trần, ngực quấn một vòng vải đỏ như dải trên đầu sào, cầm một bó hương nghi ngút khói cắm lên đầu mũi thuyền. Đoạn ông lui về sau, rạp đầu lạy hai lạy, đan hai bàn tay vào nhau khuỳnh lên ngang trán, khấn xin. Xong, lạy tiếp hai lạy nữa. Bấy giờ chị - người nhập vạn, cũng cởi trần như thân chủ - mới đứng lên đu vào hai cánh tay của ông già và anh con trai bện chặt lấy nhau như một sợi dây. Hai người đánh võng chị và hú: "Hu hầy! "Hu hầy! "Hu hầy!". Đến nhịp thứ ba thì chị buông tay để toàn thân rời "sợi dây" rơi tự do xuống đầm. Người ta nghe tiếng rơi của người mới nhập vạn để biết lòng Thần Phá. Tiếng rơi càng to càng gọn là Thần Phá vui lòng. Tiếng rơi xòe ra, lọc bọc, loc bóc… là Thần Phá không ưng, phải làm lễ khác vào một ngày khác.
Hai người vạm vỡ nên đánh võng mạnh quá làm chị sợ hết hồn co rúm cả bốn chân lại, người như một cục thịt tròn vo. Chị rơi như một hòn đá rơi. Mặt đầm bị chị khoét một lỗ thủng chui tọt xuống gọn gàng như không. Vậy là Hà Bá đã chấp nhận một người con mới của đầm phá. Thân chủ vái tạ. Bó hương cháy dở và các dải vải cúng điếu được thả xuống đầm cùng với con tôm bản mệnh. Lễ tất…"
Cùng lúc, tiếng lao xao ơi ới của người qua ngang gọi đò. Chị bừng tỉnh, chiếc đò ngang đã cập bến. Sang bên kia, dấn thêm non nửa buổi nữa là chị sẽ đến ven thành. Chị như nghe rõ tiếng gọi: "Đào ơi... ời" cùng cái vẫy tay quấn quýt của mẹ chị trước mặt. Rồi chị thấy hai cánh tay như hai cách chim non của thằng con trai lên năm đứng trên thuyền cạnh cha nó với tấm lưng khòm khòm như mu rùa mốc thếch rong rêu đầm phá. Thoắt cái, chị lại thấy hiện lên bóng ông già cùng lời trối trăng của ông văng vẳng bên tai. Thoắt cái, chị mường tượng hai cha con tơi rách nón mê lùi lũi đi giữa lễ hội ăn mày, đôi mắt von vót đuôi cá chình của nó không thèm liếc ngang mâm cỗ mà lại liếc xéo lên mắt chị như trách, như hỏi, như cầu mong chị trở về. Có lẽ, hai cha con không chỉ một lần đó, còn bao lần nữa rạc cả người, hết cả hơi, đi tìm chị…
Từ đâu đó, một giọng hò cất lên, vô tình mà làm lòng chị như muối xát:
Phá Tam Giang ngày rày đã cạn
Truông nhà Hồ nội tán cấm nghiêm
Tìm em như thể tìm chim
Chim ăn biển Bắc anh tìm biển Nam…
Đang dợm chân bước xuống đò bỗng chị rên "ồi ồi" một tiếng trong cổ họng, rồi vụt quay người, chạy lui. Con bé trên lưng chị bị ngật đầu một cái, khóc ré. Chị vừa chạy vừa vỗ vào mông con. Con ơi! mẹ con ta trở lại với vạn thuyền với sóng nước, con à! Đừng khóc con ơi! Con sẽ gặp lại cha con, anh con, con à…
Chị cứ cúi cổ chạy, như thể nếu quay đầu lại nhìn một thoáng thì không thể nào trở lại đầm phá được nữa…

10. Đó là chuyện hơn ba mươi năm về trước. Sau Cách mạng tháng Tám, tôi là cán bộ lưu dung vẫn làm ngành giao thông ở nhiều nơi trên miền Bắc, năm hòa bình được chuyển về Tổng cục. Phải mấy năm sau, tôi mới có dịp hỏi thăm về tới cái làng nhỏ bé nằm cạnh bờ sông Hoàng Long, Ninh Bình, dò tìm được tung tích cha mẹ cô Đào. Ông bà cụ không may đã mất vì bệnh tình, vì suy sụp vụ mất con dạo đó. Lạ một điều trong làng không ai chứng kiến được mẹ con cô Đào trở về quê hồi đó. Thế là biệt tin. Tôi trở về cơ quan với nỗi lòng nặng trĩu đau buồn. Không biết cô ấy còn hay mất. Chuyện gì đã xảy ra với cô ấy sau khi từ biệt mẹ và em gái tôi ra đi, tìm đường về quê cũ?
…Rồi cuộc kháng chiến kéo dài, mọi chuyện riêng tư, mọi éo le của hoàn cảnh đều được gác lại một bên.
Cho đến ngày thống nhất đất nước, tôi mới có dịp trở về quê thăm lại những người ruột thịt và làng xóm nơi chôn rau cắt rốn, sau mấy mươi năm xa cách. Bấy giờ tôi đã là một ông già sắp bước vào tuổi "nhĩ thuận". Mẹ tôi đã mất. Cô Quý vẫn ở ngôi nhà cũ với một đàn dâu rể con cháu đông đúc. Chồng cô ấy là học sinh, lớn lên lấy vợ và theo cách mạng, hoạt động ở nội thành Huế và hy sinh trong một trận vây lùng của giặc hồi Mậu Thân. Chính nhờ cô Quý mà tôi gặp lại được người cũ trong một buổi chiều tôi cứ ngỡ là hao hao buổi chiều nào trong ký ức.
Bà Đào bấy giờ không còn sống trên mặt đầm nữa mà đã định cư trên bờ, tại vùng cửa Tư Hiền cách làng tôi không xa, chỉ non nửa giờ chạy xe máy. Chồng bà, người con vạn đầm hiền như ngọn rong ngày đó cũng đã mất. Bà có đến sáu người con. Hai người con mà ta đã biết, cô gái thì đi lấy chồng buôn bán bên kia đường quốc lộ, thỉnh thoảng đáp ca nô hoặc tàu nước vượt qua đầm để về thăm mẹ bên này. Còn người con trai mắt vót đuôi cá chình ngày nào giờ vẫn theo nghề trên sóng nước, có điều giờ đây anh ta là chủ của một đội thuyền máy khá lớn, chuyên đánh bắt khơi xa. Những ngày không đi biển hoặc từ biển trở về, anh ta neo thuyền ở mép cồn hoang giữa đầm nơi hồi xưa bố con anh vẫn găm thuyền mỗi khi nghỉ ngơi, rồi bơi xuồng gắn máy lên bờ, về nhà.
Tôi còn nhớ bà Đào thua tôi hai tuổi. Tóc bà không thấy bạc mà vẫn nhưng nhức y như làn tóc tiên bà vẫn chăm sóc hồi nào ở nhà tôi. Vẫn cái nước da ngăm ngăm mằn mặn. Vẫn đôi mắt to màu nâu cháy vừa cởi mở chân thật vừa bí ẩn xa xăm. Có điều đôi mắt ấy giờ đã nhăn rạn chân chim ở đằng đuôi, dấu vết của thời gian và cuộc sống gieo neo trên mặt đầm phá thời xưa.
Chúng tôi nhận ra nhau ngay trong phút đầu gặp lại sau bao năm dài bặt tin nhau. Có lẽ hình ảnh của hai đã in sâu trong tâm khảm của mỗi người, thời gian và sự ngăn cách khôngthể xóa nhòa được.
Bà kể lại những gì tôi chưa biết sau đó.
"…Khi chị tìm về chỗ góc đầm hoang vu, nhìn ra cái cồn nhỏ giữa phá, chị không thấy tăm hơi vạn thuyền chồng con đâu cả. Chị những tưởng hai cha con đã rời chỗ, đi làm ăn nơi khác, tại một nơi nào đó của cái dải đầm phá mênh mang chi xứ này. Một trên bờ, một dưới nước, bóng cá chớp chim… Chị cứ đi dọc đầm mà ới gọi, mà soi nhìn, nát cả chân, khản cả giọng. Ba ngày ròng rã như vậy, ba ngày dài như ba thế kỷ. Không khéo cha con vạn thuyền tan nát rồi, đã lưu lạc rồi, đã bị Hà Bá gọi về hầu hạ rồi…! Nghĩ như vậy nhưng chị vẫn chưa hết hy vọng. Chỉ mong sao cha con còn sống, có thể ngày nào đó chị sẽ tìm ra. Ngày đó, nếu như anh bắt được vợ khác, cũng là điều may mắn, cũng tốt, miễn là còn sống… Đến ngày thứ tư vẫn không thấy tăm hơi gì, chị định quay về nhà mẹ nuôi thì bỗng trong tiếng gió, chị nghe mơ hồ một tiếng chém nước phầm phâm đâu đó, rất xa… Tiếng chèo chém nước nhịp đôi một, ngọt và hơi ngâm của chồng chị thì tai chị nghe đã thuộc, không thể lẫn vào ai. Bao nhiêu năm sống trên đầm phá đã luyện cho chị một đôi mắt tinh như rắn nước, một đôi tai thính như vịt trời. Chị nhìn lướt một vòng cung ra mặt phá, định vị nơi phát ra tiếng chèo mà

chỉ có chị mới nghe được, mới phân biệt được. Và chị quay lui, hướng tầm nhìn về phía hòn Thúy Vân. Kia rồi, từ bên kia mép hòn, một chấm mờ xuất hiện, to dần, to dần. Đến khi cái màu nâu như gan cá của nó hiện ra, chị đưa cả hai tay lên khoảng không mà ngoắt, ngửa cổ lên trời mà réo gọi. Chị lội ra giữa dòng nước ngập ngang ngực rồi bơi đứng. Con bé trên lưng chị khoái quá, vỗ tay a á. Vừa lúc chồng chị lướt thuyền tới, nhận ra vợ con mình. Anh quẳng chèo, nhảy xuống nước, như một con rái tơ, chỉ vài ba vòng rướn, anh đã xáp đến bên chị. Rồi một tay quặp lấy chị, một tay giật con bé ra khỏi tay chị, ấp chập vào ngực, dùng hai chân quẫy nước, bơi ngồi về thuyền. Thằng con trai đứng hai chân trên thuyền mới hơn năm tuổi nhưng đã ra vẻ ông chủ tương lai lắm; nó choãi hai chân ra, hai tay chống nạnh, mặt cứ ngất lên, nhắm tít mắt, cười hết cỡ… Mấy tuần sau đó, vợ chồng chị đánh được mẻ cá lớn, nách một rổ to đến thăm mẹ và cô em nuôi trên bờ để tạ cái ơn mà chị gọi là ơn "biển trời đầm phá"…
Tôi ngồi lặng phắc nghe bà Đào nói, lòng bâng khuâng không bút nào tả xiết. Sau một tiếng cười dường như vô tư, bỗng bà trầm ngâm, nói như thì thầm:
- Ngày đó, tôi yêu ông lắm mà không dám thổ lộ, ông có biết không ông?
Tôi cố nén một tiếng thở dài, không trả lời. Mà thật, bà Đào hỏi có phải để mong câu trả lời đâu! Bà nói tiếp hồn nhiên như không:
- Ờ mà ngày đó, tôi cũng lạ cũng liều ông nhỉ? Ai lại gái "mọi đầm" đã có hai con, lại dám đi yêu một ông tú tài tây, lại là ông anh nuôi của mình! - Bà cười khanh khách, tiếng cười nghe rất trẻ.
Lát sau bà chép miệng:
- Chuyện gần hết một đời người, ông nhỉ? À mãi sau này, vợ chồng tôi mới về Hoàng Long được, sau cái ngày ông đến tìm. Bây giờ thì đâu cũng là đất nước mình, tôi ở đây cũng được, cũng thuận, ông thấy có phải không?
- Vâng, cái hồi đó bà nghĩ sao mà quay lại đầm phá vậy bà? - Bất giác tôi hỏi một câu ngớ ngẩn.
Bà Đào im lặng một lát, thấp giọng lại, hơi xa xôi:
- Ông có nhớ về cái lễ hội ăn mày hàng năm ở làng ông không? Đấy, chuyện này chắc vừa rồi o Quý đã kể ông nghe. Có thể nói là bắt nguồn từ cái lễ hội đặc biệt kỳ lạ mà tôi được thấy tận mắt lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng trong đời. Bây giờ nước mình đâu có còn cái lễ hội nào như thế nữa. Đấy…!
Nói rồi, bà vào nhà trong để soạn sửa cơm đãi khách.
Tôi đứng lên, ra thềm ngoài. Ở đây, có thể nhìn vọi ra mặt đầm mà không bị cây cối bụi bờ che khuất. Bấy giờ, ráng chiều đã nhuộm. Cả một vùng bao la vốn ngun ngút xanh bỗng bừng lên, đổi sắc màu, đỏ ối cả trên trời dưới nước…
2hi.us