Ring ring
Lạc lối - Phần 2

Lạc lối - Phần 2

Tác giả: Sưu Tầm

Lạc lối - Phần 2

Vỡ


Giả sử, chỉ là giả sử thôi, bạn không còn nhớ gì về cội nguồn của mình, liệu bạn có can đảm tìm lại chúng hay không? Họa chăng bạn cũng sẽ thắc mắc bạn từng là ai? Một đại gia với cuộc sống sung túc hay chỉ là một kẻ lang thang vô định giữa những ngã tư đường?


***


Đôi khi, vào lúc bình mình còn chưa xòe cánh quạt cam hồng sau những rặng núi, tôi đứng tựa vào ô cửa và chăm chú ngắm nhìn những giọt sương đọng trên tấm kính trong suốt. Khoảnh khắc ấy, tôi dường như bước ra khỏi ranh giới của sự sống, tôi thấy cơ thể mình nhẹ tênh, thậm chí tôi sợ một ngọn gió nhẹ cũng có thể thổi tôi bay mất mãi mãi. Tôi có bạn bè không? Có gia đình không? Hay tôi được sinh ra từ những làn sương mỏng manh dễ dàng tan tiến kia? Tôi hạnh phúc với hiện tại, có thể nói là như vậy. Dù chẳng còn chút ý niệm nào về bản thân, nhưng tận sâu trong lòng, tôi vẫn muốn tìm lại một điều gì đó, điều duy nhất thôi thúc tôi quay đầu nhìn về. Mọi vật hiện hữu trên thế gian vẫn tuân theo quy luật vĩnh hằng của nó, dòng người vẫn trôi, và họ vẫn nhìn tôi như thể tôi được kết tinh từ pha lê trong suốt. Lẽ nào tôi lập dị và khác biệt so với họ ư? Người đời thường bảo ký ức là thứ không thể chết. Phải, xung quanh tôi ai ai cũng có kho báu ấy trong tâm trí, chỉ riêng tôi là đã lỡ lạc mất "một người đã từng là tôi". Điều được cho là bất tử của con người mà tôi cũng chẳng còn. Vậy, tôi là gì đây?


Lạc lối - Phần 2


Mike – một cựu y tá - là người đàn ông đã cho tôi cuộc đời mới lẫn một cái tên mới. Sống dưới cái tên Jack, nhiều lần tôi cảm thấy thật sự hạnh phúc đến mức tôi không buồn tò mò về quá khứ của mình. Có lẽ, trong những cơn ác mộng đêm khuya, chiếc bóng của hoài niệm vẫn thường rỉ tai rằng tôi của ngày xưa chỉ là một ảo ảnh vất vưỡng trên phố; ngập chìm trong những ngày tháng đen tối vì bị nỗi chán chường ăn mòn tâm hồn. Tuy vậy, thỉnh thoảng, tôi lại thoáng nghe tiếng ai đó gọi tôi bằng một cái tên lạ lẫm. Đó là hậu quả của vụ tai nạn đã khiến tôi mất trí nhớ, hay ở quãng đời trước, tôi cũng sở hữu năng lực siêu nhiên này? Tôi không biết, chỉ là, rất khó để giải thích bằng lời, nhưng giọng nói siêu thực ấy luôn khiến tôi muốn "quay về", mặc dù tôi chẳng biết phải bắt đầu từ nơi đâu. Tôi sử dụng bản đồ và la bàn rất khá, nhưng trên đời làm gì tồn tại thứ gọi là "La Bàn Định Vị Ảo Ảnh".


Tôi đang làm việc tại cửa hiệu cho thuê sách cũ, và là nhân viên duy nhất của Mike. Ông chủ của tôi rất hay cười, mặc dù nụ cười của ông luôn thoáng chút lạc lõng. Trong một đêm ngập men rượu, ông thú nhận rằng ngày xưa ông biết rõ tình yêu hơn ai hết, và cũng rõ hơn ai hết nỗi đau của nó. Đôi mắt nhoà nước của ông khiến tôi hiểu đó không đơn thuần như nỗi buồn của những đứa trẻ mới lớn than thở vì sự chia tay với mối tình mà chúng cho là tình yêu của đời chúng. Nhìn ông, tôi bất giác cũng khao khát có được một tình yêu sâu sắc, nhưng rồi nó lại làm tôi sợ hãi. Yêu đơn phương bao giờ cũng giống như việc thắp lửa cho một ngọn nến vậy. Nhìn nó cháy dần, cháy dần trong đau đớn, rồi từng vệt sáp khô cằn sẽ bám chặt xuống nền gạch mãi mãi.


Người đàn ông này nhân hậu hơn tất cả những người tôi từng biết - tôi dám cá luôn ở cuộc đời trước của mình. Gần 7 năm về trước, tôi khổ sở tỉnh dậy trên chiếc giường của Mike; đầu quấn chặt băng và cái mùi thuốc đỏ, thuốc tê khiếp đảm đó như vẫn còn phảng phất quanh cánh mũi tôi. Mike giải thích rằng đã trông thấy tôi bất tỉnh trên ven sông; thân ngập một nửa trong làn nước lạnh ngắt. Sau khi nhận ra tôi chẳng còn nhớ gì, ông liền gợi ý về việc nương lại hiệu sách với ông, thậm chí còn đặt cho tôi một cái tên mới. Ông gọi tôi là Jack, tôi không chắc mình thích cái tên ấy, nhưng ông bảo rằng đó là tên của một anh chàng lãng tử trong bộ phim yêu thích nhất của ông. Trông ông lúc ấy có vẻ khá hồ hởi, rồi sau đó tôi mới biết ông sống đơn độc không gia đình, như một con thuyền rách rưới tang hoang lênh đênh vô định giữa dòng đại dương. Tôi hiểu vì sao ông tỏ ra mến tôi đến thế. Khi biết trong người tôi chẳng còn giấy tờ tuỳ thân hay bóp ví gì để chứng minh tôi từng tồn tại, Mike suy rằng nước sông đã cuốn trôi nó, và cuốn luôn cả ký ức của tôi. Những lúc tôi từ chối lời đề nghị làm giấy tờ tuỳ thân mới, Mike đều hỏi tôi phải chăng tôi luôn mong tìm lại bản thể cũ của mình. Tôi không rõ, chỉ là tôi chưa sẵn sàng cho việc đấy.


Another World là tên cửa hiệu của chúng tôi, và tôi thích cái tên này hơn Jack khá nhiều. Suốt ngần ấy năm được bao quanh bởi những cuốn sách, tôi nhận ra mình yêu chúng khôn xiết. Cuộc sống tôi ngập chìm trong chất thi vị và phảng phất cái mùi của những trang giấy cũ xưa, vô vàng hạt bụi li ti khiêu vũ trong ánh nắng tràn vào từ các cửa sổ; lóa lên như những viên pha lê, và tôi thích ngắm nhất khung cảnh đó. Các tủ sách hộ pháp kê đều bốn bức từng đã tróc vôi, sách được xếp theo từng thể loại: tình cảm, kinh điển, phiêu lưu, viễn tưởng, tâm lý hay thuộc nhà văn Mỹ và Pháp. Công việc của tôi là giúp khách lấy quyển sách quá cao hay lau bụi cho những quyển không ai động tới, và tôi tự hỏi chúng có bao giờ cảm thấy tủi thân hay không. Khi nhiều người bị thu hút bởi thời đại công nghệ thông tin, hiệu sách hoài cổ này gần như trở thành chốn hẻo lánh. Tuy vậy, vẫn xuất hiện vài người vô cùng đặc biệt đến nỗi họ khiến tôi thao thức mỗi đêm. Họ, Mike và tôi là những người nương tựa lẫn nhau ở một thế giới khác.


Lạc lối - Phần 2


Noah là cái tên tôi gọi thằng bé hay cầm đàn guitar mà thở nên những giai điệu nao lòng. Thằng bé không có tên, hay chính xác là nó không chịu nói với tôi; mà thật ra nó chẳng bao giờ hé môi nói lời gì cả. Tự ti vì vết sẹo dài trên má, nó luôn câm lặng ngắm nhìn dòng người qua đường bằng đôi mắt trưởng thành một cách kỳ lạ, đôi khi, tôi ngỡ thằng bé còn lớn hơn tôi vài tuổi. Tôi từng đọc một cuốn sách nói về một cậu bé bị nhốt trong hang động tách biệt với ánh sáng mặt trời, và chính vì vậy mà cậu cơ thể cậu không thể phát triển, mặc dù tâm hồn đã là một người trưởng thành. Cậu bé đó tên Noah. Nó luôn cau mày khó chịu khi tôi gọi nó như vậy. "Anh cũng không thích cái tên Jack lắm đâu.", khi tôi thốt nên câu nói ấy, đó cũng là lần đầu tiên thằng bé chịu nhìn tôi một cách bình thường. Như thể so với những hình bóng sáng ngời xung quanh, tôi dần được nhuộm một màu đen hòa hợp với nó. Tuy nhiên, thằng bé vẫn rất kiệm lời với tôi. Noah gầy guộc, đen nhẻm với quả đầu xoăn luôn vác đàn guitar lang thang khắp nơi để kiếm vài đồng xu lẻ. Hôm nào may mắn không bị bọn du côn trấn lột, nó có thể tự thưởng mình chiếc bánh chocolate thơm phức từ tiệm của bà béo Katty. Nhưng sự may mắn sao quá xa xỉ đối với thằng bé. Khi tình cờ trông thấy Noah ngồi ôm chiếc đàn trên phố, tôi đều mang cảm giác, dù rất mơ hồ, rằng thằng bé đang tìm kiếm hay chờ đợi một ai đó. Lần đầu đến quán, Noah cứ đứng trước tủ sách, bối rối, rụt rè chạm tay vào gáy sách rồi thất thểu bỏ ra ngoài. Sau đó Mike bảo với tôi thằng bé từng bỏ trốn khỏi viện mồ côi, và nó không biết chữ.


Đôi mắt Noah rất buồn, chất chứa vô vàn nỗi lòng đến mức nó không biết phải bộc lộ như thế nào nên đành im lặng, đành tự nhốt mình trong thế giới cô độc của chính thằng bé. Nhưng, đôi mắt ấy dần có sức sống hơn khi Noah bắt đầu làm quen với Thomas - một ông lão mù loà đã từng là thầy giáo. Ông đề nghị dạy chữ cho thằng bé như thể muốn hồi tưởng lại quá khứ huy hoàng, và Noah đồng ý ngay tức khắc. Có lẽ, thằng bé cảm thấy an toàn khi vết sẹo trên má là vô hình đối với Thomas. Người thầy này thường xuyên lui đến Another World, và bất chấp việc ánh sáng bị tước đoạt, ông vẫn mở từng trang sách ra mà vuốt ve mặt giấy khô ráp; bên cạnh là quyển sách chữ nổi dành cho người khiếm thị. "Khi mất đi một trong những quyền lợi để định hình vạn vật, con người ta luôn khao khát được cảm nhận tường tận mọi thứ", ông bảo thế khi tôi tò mò nhìn ông trong im lặng. Cái tôi thường để ý ở Thomas là ông luôn nở nụ cười cay đắng khi nói về quá khứ, ông nhắc lại những màu sắc, những trang sách màu cafe, từng con chữ nghệch ngoạc của học trò, những đôi mắt trẻ thơ đầy sự tin tưởng mà ông biết sẽ không còn nữa khi bị mất đi ánh sáng. Sau đó, ông lại mơ màng kể về cảnh hoàng hôn, cảnh ngã tư đông đúc hay những kiến trúc độc đáo từ nhiều năm trước như thể ông sợ nó sẽ chạy trốn khỏi hoài niệm của ông. Tôi khẽ tặc lưỡi, bọn trẻ thời ấy quan niệm mù loà đồng nghĩa với một vốn kiến thức nông cạn, dù vậy, chúng đâu biết rằng trên đời vẫn tồn tại khối người sáng mắt nhưng lại mù tịt về mọi thứ.


Khi Noah rời đi cho cuộc du hành với đàn guitar trên phố, tôi thường ngồi rất lâu để trò chuyện với Thomas, và tôi nhận ra ông không phải người mù loà mà dường như biết tất cả. Ông có một chiếc đồng hồ bạc mất cả kim giờ lẫn kim phút, và trong một lần tò mò xem xét nó, ông đã tặng chiếc đồng hồ khiếm khuyết ấy cho tôi.


- Nó hợp với cậu hơn ta đấy.


- Ông biết chiếc đồng hồ đã hỏng rồi chứ? Ý cháu là chẳng còn cây kim nào cả.


- Ừ, bởi vậy ta mới nói nó hợp với cậu.


Tôi im lặng. Phải, tôi chẳng khác nào chiếc đồng hồ mất kim để xác định thời gian, hay mọi thứ.


- Chàng trai – ông điềm đạm nói – cậu từng nghe câu "cuộc sống càng trống rỗng thì càng nặng nề" chưa? Hãy làm gì để lấp đầy khoảng trống trong lòng cậu, và thôi thở dài trước mặt ta đi.


Kể từ đó, tôi đều tránh ngồi đối diện Thomas mỗi khi mang tâm trạng nặng nề.


Sau cùng, người mà tôi thấy thú vị nhất là một gã rocker mang biệt danh Blue. Gã mê màu xanh đến mức gã không bao giờ tiết lộ tên thật của mình, để mọi người ai ai cũng phải gọi gã bằng cái màu của biển và bầu trời ấy. Tôi nghĩ gã hơi điên. Người ta kể rằng có hôm phát hiện gã lặn ngụp dưới làn nước biển gần năm phút, rồi khi được kéo lên, gã chỉ thì thào trong nụ cười rạng rỡ: "Thật kì diệu". Chắc hẳn, trong đời bạn đã từng gặp người có tâm hồn và vẻ ngoài gần như tách biệt, và Blue là kiểu người như thế. Gã luôn vận áo đen, quần jean rách kèm giày bốt, tóc bờm ngựa ánh màu xanh dương, xỏ khuyên ở mũi và môi, tay trái gã xăm hình cánh dơi và các ngón tay hai bên đều xăm ký tự lần lượt là B L U E. Trông gã vừa ngầu vừa đáng sợ. Thú thật, lần đầu gã vác đàn guitar điện bước hùng dũng vào cửa hiệu, suýt chút nữa tôi đã gọi cảnh sát. Tuy nhiên, gã lại tiến đến tủ sách Kinh điển; lấy ra cuốn On The Road rồi lặng lẽ ngồi xuống dãy bàn. Tôi len lén quan sát Blue; lòng vẫn chưa hết ngạc nhiên, và nhận ra gã thật sự đọc sách chứ không hề ra vẻ một người nho nhã. Chập tối, gã gấp quyển sách lại rồi thở dài, và tôi bất giác cũng thở dài theo gã – triệu chứng của những người vừa đắm mình trong một nước Mỹ tan vỡ của On The Road. Trong đôi mắt sáng màu của Blue, ẩn hiện một màu đen tận cùng của sự tuyệt vọng. Tôi đoán gã hẳn có nội tâm rất phức tạp.


Khoảng hai ngày sau, Blue chủ động đến bắt chuyện với tôi. Gã nói chuyện rất có duyên, hài hước và tôi để ý gã hay đập tay vào đùi mỗi khi phá lên cười giòn giã. Lúc cả hai trở nên thân thiết hơn, Blue mặc kệ tôi có muốn nghe hay không, gã cứ huyên thuyên về nhạc rock, về những kẻ coi thường tài năng mà cắt show diễn của gã, về màu xanh và mấy cuốn sách Kinh điển. "Tôi nghĩ các nhà văn đình đám thời xưa đã lấy đi hết sự tinh túy ở các cây bút hiện tại rồi. Cậu trông mấy cái tựa ở dãy sách hiện đại mà em, cái gì chứ? "Anh yêu em, vợ ngốc nghếch" cơ đấy! dễ thương làm sao!" Tôi cười ngặt nghẽo. Sau đó, tôi đưa cho gã cuốn Người trộm bóng của Marc Levy. "Ở thời kỳ nào cũng có vài nhà văn xuất chúng", tôi nói thế và gã cũng chịu mang quyển sách về nhà đọc. Qua hôm sau, tôi thấy gã lọ mọ trước tủ sách của các nhà văn Pháp. Thay đổi được một ai đó quả thật rất vui.


Ở Blue tưởng chừng có một chút gì đó hơi trẻ con, vô tư. Nhưng gã lại mang tâm hồn già cỗi và rất khó hiểu. Đó là vào một ngày mưa, khi những bong bóng nổi lên dưới mặt đường rồi lại vỡ ra; biến mất, tôi với gã đứng trước cửa hiệu để hút thuốc vì trong quán có Noah đang học chữ cùng Thomas. Gã đột nhiên hỏi tôi:


- Jack, cậu cảm nhận như thế nào về màu xanh?


- Hy vọng...


- Cậu dùng cái giọng ỉu xìu để nói lên từ ấy nghe thật kỳ cục! Còn gì nữa không?


- Ừm...sự tự do chăng?


- Sự độc nhất vô nhị! – gã hào hứng hét toáng lên – không một màu nào có thể pha nên màu xanh, nó là đặc biệt nhất, là duy nhất! Nào, nếu cậu đoán trúng điều cuối cùng tôi sẽ khao cậu chầu bia.


Tôi nhìn gã hồi lâu, rồi trước khi kịp nhận ra, tôi nghe thấy mình đáp:


- Sự bí ẩn.


Mặt gã từ bất ngờ chuyển sang khoái chí, gã cười đến mức sặc khói thuốc.


- Tôi thích cậu quá Jack ạ! Đúng, hoàn toàn chính xác! Ai cũng có thể thấy vẻ u ám, nỗi muộn phiền của màu đen hoặc xám, rất rõ ràng đúng không? Còn màu xanh chứa một nỗi buồn rất kín đáo, cực kỳ bí ẩn. Nó ẩn mình dưới lớp xanh huyền bí, nhưng sâu thẳm trong đó là màu đen, một màu đen đậm đặc.


- Cậu có gia đình không, Blue?


- Vớ vẩn, không một màu nào có thể pha thành màu xanh cả.


Chúng tôi im lặng, cùng nhìn bầu trời dần khoác màu xám tro. Phía xa, qua những sợi dây điện chằn chịt xen kẽ nhau, tôi thấy vài chú chim vỗ đôi cánh mỏi mệt để tìm đường về tổ ấm. Rất lâu sau, Blue bảo tôi đưa gã một cây bút và một tờ giấy trắng, rồi hí hoáy viết lên đó những dòng chữ ngoằn nghèo khá khó đọc. Một bài thơ, tôi há hốc mồm khi gã chìa cho tôi bài thơ tiếng Anh mà tôi biết chắc rằng gã tự làm.


I love when seeing blueBlue a sky, blue an oceanBlue as if it's always trueThings all around keep being blueAnd sky turns grey and then turns blackAnd so does ocean, but no differenceFor black of blue, for grey of blueFor deep inside, blue still remains...


Tôi hiểu sẽ chẳng có chầu bia nào cả. Gã thật xảo quyệt.


***


Mọi thứ chắc vẫn yên vị như vậy, và tôi chắc cũng là một Jack hư vô như bây giờ nếu nàng không xuất hiện. Thú thật, nàng là người phụ nữ có nét đẹp sắc sảo nhất mà tôi từng gặp, gương mặt phảng phất sự kiêu sa sắc bén đến mức tôi sợ nhìn nàng, nhìn vào đôi mắt mọng nước một cách khó hiểu của nàng. Đó có phải là lý do không nhỉ? Tôi để ý nàng lui đến hiệu sách này mỗi tuần hai lần, và đã liên tục ba tuần nàng cứ đến đây; chọn một quyển sách mà tôi biết nàng không hề đọc, và quan sát nhất cử nhất động của tôi như thể tôi là một cái xác đội mồ sống dậy. Có lần, tôi thấy nàng quyết định đứng lên từ dãy bàn và tiến về phía tôi, nàng đi rất chậm, bước chân tập tễnh như đứa trẻ. Nhưng khi nghe Mike gọi tên tôi, sắc mặt nàng liền thay đổi: cơ mặt giãn ra và sự nhẹ nhõm xâm chiếm lấy nàng. Thế rồi, nàng quay gót đi ra cửa. Một tháng sau đó, nàng bặt tăm. Nàng là ai nhỉ?


Lạc lối - Phần 2


***


Đầu tháng mười hai, không khí Giáng Sinh chưa chi đã tràn ngập khắp thành phố nhỏ bé này, như thể ngày nào cũng là lễ Giáng Sinh vậy. Mike đã tậu trước một cây thông cỡ trung, cùng với vài bộ trang phục mùa đông cho tôi, trong đó tôi thích nhất chiếc khăn choàng màu xám tro như màu của bầu trời mà tôi và anh bạn rocker đã cùng chìm đắm vào suốt buổi chạng vạng. Blue đã bốn ngày không đến cửa hiệu, có lẽ gã bận đi lưu diễn, tôi hy vọng gã sẽ được công nhận tài năng vào một ngày nào đó, còn nếu ích kỷ một chút, tôi mong gã đừng biến mất để rồi lại quên hết tất cả như tôi. Thomas thì đến đều đặn hơn, Noah cũng vậy. Thằng bé vô cùng kiên trì, nó đã ngồi trọn một ngày để chép cho đúng chính tả đoạn văn mà thầy giáo đưa ra. Tôi vẫn còn giữ tờ giấy nhăn nhúm do nó vò lại vứt đi trong lúc tức giận, đơn giản chỉ vì nó nhầm lẫn vài chữ cái. Noah đến nay đã viết được những cấu trúc khó, thằng bé có trí nhớ tốt và rất thông minh, nhưng nó vẫn vô cùng kiệm lời với tôi. Mike từng đề nghị việc bao bọc thằng bé. "Cháu cần phải tìm kiếm", nó chỉ nói vậy rồi bỏ đi cùng cây đàn guitar.


Qua ngày thứ sáu thì Blue đến, mắt gã thâm quần và khoe rằng tiếng đàn điên loạn của gã đã làm các khán giả ở quận kế bên chết mê chết mệt. Gã đập tay thân thiết với tôi rồi biến về chỗ mấy tủ sách. Tôi nhìn theo gã, thích thú như ngắm một chú sói đen đang nâng niu những đóa hoa lộng lẫy. Ngay lúc ấy, nàng bước vào. Lần này trông nàng tự tin hơn, quả quyết hơn, nàng xấng đến chỗ tôi và nói một tràng:


- Em không thể tập trung được vào bất cứ việc gì! Em không thể chịu được nữa. Anh âm thầm bỏ đi một cách vô trách nhiệm, và biệt tăm mấy năm trời. Em tưởng anh đã mất trong tai nạn ô tô liên hoàn năm đó. Lần vô tình thấy anh ở gần nhà hát em đã suýt ngất, nhưng em đã cố theo anh về tận đây. Rất giống, anh rất giống người đó!


Tôi ném cho nàng cái nhìn ngỡ ngàng.


- Ai cơ?


- Lucas...


Như thể có ai vừa đánh một phát vào ngực tôi. Lucas...đây chính là cái tên từ giọng nói thường gọi tôi trong hư vô. Đầu tôi bắt đầu nhức nhối, tôi nhăn nhó nhìn nàng ấy.


- Xin lỗi, nhưng tôi không còn...


- Em đã cho điều tra về anh...


Không kịp để cho tôi phản ứng, nàng tóm lấy tay trái tôi rồi xỏ vào ngón áp út chiếc nhẫn trơn bằng bạc, nom rất giống nhẫn cưới. Tim tôi thắt lại khi nhận ra nó hoàn toàn vừa khít với tôi, và nước mắt nàng rơi xuống. Bất chợt, một loạt hình ảnh vồ vập đập mạnh vào trán tôi, tôi thấy gương mặt thánh thiện của mục sư, những vị khách lộng lẫy đang yên vị hai bên hàng ghế; lẫn trong đó, hằn lên gương mặt phảng phất nét buồn nhẹ nhàng của một cô gái làm lòng tôi trùng xuống. Đó là cảm xúc lúc bấy giờ, hay chính là cảm giác của tôi ở hiện tại? Rồi từ phía xa, nàng xuất hiện với bộ váy trắng, ngồi trên xe lăn mỉm cười hạnh phúc. Nàng được một người đàn ông trạc lục tuần đẩy xe về phía tôi. Mái vòm nhà thờ rộng vô cùng tận, và ánh sáng dần chói lóa, cho đến khi tất cả các hình ảnh chập chờn ấy biến mất.


Tôi thở hắt ra một tiếng, gần như là sợ hãi. Nàng từng là người tôi quen, hơn nữa còn là vợ tôi! Ngay lập tức, tôi nhìn xuống đôi chân ẩn sau lớp váy dài của nàng


- Một chiếc chân giả, những liệu pháp trị liệu... - nàng thổn thức – mặc dù em không thể chạy nhảy như ngày bé nữa, nhưng gia đình và bác sĩ đã giúp em rất nhiều. Em đã được yêu thương trong một thời gian dài.


Nàng xúc động siết chặt lấy bắp tay tôi, như thể sợ tôi sẽ hóa thành mây khói. Một chiếc nhẫn vàng đính kim cương lấp lánh nơi ngón áp út nàng, tôi liếc nhìn nó, và nàng nhìn theo hướng mắt tôi.


- Em đã tái hôn...


Vậy đấy. Một kẻ mất trí nhớ gặp lại vợ cũ và nhận được tin rằng nàng đã tái hôn. Tôi gật đầu một cách máy móc. Nàng tiếp tục:


- Anh vẫn còn nhớ tên em chứ?


Tôi lắc nhẹ đầu, cổ họng tôi nghẹn lại.


- Vậy còn tên cô ấy?


Tôi ném cho nàng ánh nhìn sửng sốt. Vẫn còn một người con gái ở trong cuộc đời trước của tôi sao?


Nàng cười nhạt, nhưng cái nhìn của nàng tràn đầy yêu thương, và tôi chẳng hiểu vì sao lại cảm thấy tội lỗi với đôi mắt ấy.


- Trong mơ anh cũng gọi cái tên đó, vậy mà... - nàng nói vẻ châm biếm, rồi liền lấy lại hơi – dù sao em rất vui vì gặp lại anh và biết anh vẫn mạnh khỏe. Hãy liên lạc với em nếu thấy nhớ sân khấu. Em vẫn rất quý anh, Lucas.


Dứt câu, nàng đưa cho tôi một tấm danh thiếp, rồi kiễng chân ôm lấy tôi. "Em phải đi", chỉ bảo thế và nàng quay gót. Tôi bước theo để dìu nàng ra đến tận cửa. Một gã đỏm dáng, tóc vuốt keo láng cóng đang đứng hút thuốc trước mũi xe ôtô, và gón tay gã cũng lấp lánh chiếc nhẫn vàng. Nàng đi về phía gã, như nàng đã đến với tôi trong ký ức vừa rồi. Lòng tôi bỗng thoáng chút vỡ tan. Nhưng tôi vẫn mỉm cười chào nàng.


Jolie Roberts là cái tên in trên danh thiếp, và nó chẳng thực sự gợi lại trong tôi điều gì nhiều cả. Dưới tên nàng có đề tên một đoàn kịch khá nổi tiếng ở thành phố cách nơi đây một chuyến tàu điện ngầm: Ánh Sáng. Thành phố đó có thể đã từng là quê hương của tôi. Nhưng cớ sao Jolie lại nhắc đến "sân khấu"? Tôi lặp lại hai từ ấy, cảm thấy như có tiếng chuông nhà thờ vang lên trong tâm trí, rất thân thuộc. Có lẽ; mặc dù tôi chưa từng nghĩ tới, ở cuộc đời trước tôi từng là một diễn viên. Tôi đã mơ một giấc mơ đẹp hiếm hoi, trong đó, tôi thấy mình đứng trên sân khấu và dưới ánh đèn chói lóa xoa hoa, tôi biến thành một quý tộc lạnh lùng. Những tiếng vỗ tay vang lên, những điệu cười giòn giã, những bó hoa tươi thơm phức bỗng dưng ùa đến níu chân tôi lệch khỏi ranh giới thực tại, và chúng khiến tôi hạnh phúc, một niềm hạnh phúc không thể lý giải. Giờ đây, khi gắng hồi tưởng lại tất cả, tôi nghĩ rằng đó không hẳn là một giấc mơ.


Như mọi lần cảm thấy rối trí, tôi tiến lại tủ sách của các nhà văn Pháp. Khi đang lướt những ngón tay trên gáy sách ở dãy thuộc nhà văn Guillaume Musso, tôi bắt gặp một cuốn tiểu thuyết viễn tưởng của nữ nhà văn trẻ: Tái sinh. Chắc ai đó đã để nhầm nó sang đây. Tôi có cái nhìn khá thiếu thiện cảm với các cây bút trẻ; dù không đến mức như Blue, nhưng những dòng tâm sự đầu trang của nữ tác giả với bút danh K. lại khiến tôi rất ấn tượng:


"Khi phải đối diện với những sự thật phũ phàng, khốc liệt của cuộc sống thực, con người ta thường có xu hướng chìm vào sự hư ảo của tiểu thuyết viễn tưởng. Những người lạc lối, hãy đến với vô vàng giấc mơ màu nhiệm này, để tìm thấy chính các bạn trong câu chuyện của tôi. Sống là phải biết mơ mộng. Hãy nắm lấy tay tôi, chúng ta sẽ cùng nhau chạy trốn khỏi thực tại."


Tôi ngốn quyển Tái sinh chỉ trong hai ngày, cái kết làm tôi thất thần cả ngày hôm sau. Chất bi kịch của K. sẽ chặn đứng tuyến lệ của bạn; khiến cho bạn không thể bật khóc, mà sự đau đớn cứ âm ỉ ở bên trong. Tôi đồng cảm với nhân vật nữ chính vì nàng bị ma thuật tước đoạt mọi ký ức, kể cả hình ảnh về chàng trai nàng hết mực yêu thương. Rồi những ngày sau đó, nàng đều ra biển; hướng đôi mắt vô hồn về phía chân trời mà chẳng biết mình tìm kiếm điều gì, và cũng chẳng hiểu vì sao nước mắt lại rơi. Thở dài, tôi vớ lấy cuốn Ngày mai của Musso rồi đến ngồi đối diện với Thomas, nhưng chỉ đặt cuốn sách xuống bàn rồi lặng lẽ hướng mắt qua khung cửa sổ. Có lời ai đó trong cơn gió kia đang gọi tên tôi...


Thomas bỗng húng hắn ho, rồi ôn tồn nhờ tôi đi tìm Noah về cho ông. Thằng bé mất tích suốt buổi sáng, trong khi ông còn rất nhiều bài tập khó cần giải thích cho nó. Phải, vô vàn điều cần được giải thích và định nghĩa.


***


Xuôi theo con phố đến ngã ba đường, tôi mới thấy bóng dáng nhỏ bé của Noah xen kẽ giữa những chiếc bóng nhạt màu. Giai điệu mộc mạc của bài I won't give up cất lên trong giọng hát trong trẻo của thằng bé, thoáng chút yếu ớt, vỡ tan. Một người đàn ông mặc vest xám với gương mặt hiền từ đang khom xuống để thả vào chiếc hộp thiếc khá nhiều đồng xu, rồi nhẹ nhàng xoa đầu Noah. Bất chợt, thằng bé nhìn chằm chằm người đàn ông đến mức im bặt, những ngón tay gầy gò cũng ngưng lướt các phím đàn. Dường như, nó đang chờ đợi điều gì ở người đàn ông kia; thể hiện trong ánh mắt long lanh, đầy sự hy vọng và khao khát. Tôi những tưởng họ quen nhau, nhưng không, người đàn ông vest xám bỏ đi về phía cầu thang dẫn xuống ga tàu điện ngầm, để lại nó lẻ loi với dư âm của cử chỉ yêu thương. Noah đưa mắt dõi theo bóng dáng xa lạ ấy rồi cúi gầm mặt xuống, vết sẹo trên má như lõm sâu hơn, và tôi cảm thấy nó vừa lấy tay lau nước mắt.


Lạc lối - Phần 2


Tôi gọi nó từ xa, để nó có thời gian chỉnh sửa một gương mặt nghiêm trang nhất, lạnh lùng nhất khi gặp tôi – như mọi lần.


- Thomas tìm nhóc – tôi liếc vào chiếc hộp thiếc, cố nói giọng hài hước – chừng này đủ mua cả hai chiếc bánh chocolate rồi đó. Anh không phiền đâu nếu nhóc tặng anh một cái. Đi thôi nào.


Tôi cầm hộp thiếc hộ nó, nhưng Noah giật lại. Lấy hết tiền xu nhét vào túi, rồi quẳng chiếc hộp lại như thể nó biết sẽ chẳng ai thèm nhặt một thứ đáng bỏ đi như vậy.


Khi đi ngang cửa hàng thú nhồi bông, thì một gia đình ba người vừa bước ra từ cánh cửa xoay. Tôi luôn có cảm giác chóng mặt khi nhìn những cánh cửa như thế. Đứa trẻ nhe hết cỡ hàm răng chưa mọc đủ, ngồi trên vai bố mà huơ huơ con hưu cao cổ nhồi bông, người mẹ bước cạnh, tiếng giày cao gót lạch cạch không đủ để át đi những âm điệu hạnh phúc trong tiếng cười của họ. Tôi lặng lẽ nhìn cây đàn guitar cũ, bong tróc vỏ của Noah, rồi đề nghị tặng nó một cây guitar mới toanh vào dịp Giáng Sinh. Nhưng, nó liền lắc đầu.


- Sao vậy? – tôi nghiêng người, cố giao tiếp với nó.


Sự câm lặng vẫn chiếm lĩnh bầu không khí quanh chúng tôi.


- Vài ngày nữa anh sẽ rời khỏi đây. Anh...phải đi tìm một người.


Đấy chỉ là một câu nói vu vơ, gần như là tự tâm sự với chính mình, ấy vậy mà Noah bỗng dưng ngước lên nhìn tôi, đôi mắt mở to.


- Anh biết mặt người đó không?


- À...không. – tôi lúng túng, vì đây là lần đầu nó chủ động hỏi chuyện tôi.


- Vậy anh tìm bằng cách nào?


- Trực giác, có lẽ vậy.


Nó mím môi, vẻ không hài lòng với câu trả lời. Khi cả hai băng qua làn đường vạch trắng, Noah lại cất giọng nói yếu ớt, nghẹn đặc:


- Em không muốn dùng đàn khác. Cây đàn này là của bố tặng cho em.


- Bố em cũng là nghệ sĩ à?


- Vâng...chắc vậy,...em luôn hy vọng là thế...


Tôi nhíu màu vì câu trả lời đầy mâu thuẫn của Noah. Bất chợt, một suy nghĩ không tưởng ập đến khiến tôi đứng sững người. "Thằng bé ở trong cô nhi viện từ lúc lọt lòng", "Sao nó lúc nào cũng lầm lầm lì lì vậy nhỉ?", "Do những đứa trẻ hư bắt nạt, nó bị tổn thương thể xác lẫn tâm lý từ nhỏ", "Vết sẹo trên má khiến không một ai muốn nhận nuôi nó", "Cháu phải đi tìm kiếm","Thằng bé dường như sẽ không từ bỏ việc đó, không bao giờ" Những mẩu đối thoại đứt rời từng thoáng qua tai tôi bỗng xâu chuỗi lại với nhau, và khiến tôi hiểu ra tất cả. Có thể Noah chưa bao giờ cô độc, thằng bé luôn có một người cha của riêng nó. Mặc dù Noah gần như đã kiệt sức vì theo đuổi một hình bóng mà sự tồn tại còn mong manh hơn một cơn gió, một người cha hư vô cũng đang đi tìm thằng bé như nó đang đi tìm ông. Phải chăng Noah tin rằng: rồi vào một ngày nào đó, ông sẽ đến trao cho nó tình yêu thương; âu yếm gọi nó bằng "con trai", rồi xoa đầu và cõng nó trên vai vào những buổi hoàng hôn trong công viên? Lòng nặng trĩu, tôi chỉ biết nối gót Noah về hiệu sách. Cái bóng nó đổ xuống mặt đường lất phất bụi, to lớn và trống rỗng.


Noah ngoan ngoãn đến ngồi đối diện với thầy Thomas, nét mặt bỗng dưng thoáng lên sự yên bình. Sau hồi lưỡng lự, tôi tiến đến cạnh Noah, nhẹ nhàng xoa đầu nó rồi đi về hướng bàn đọc sách của Mike. Tôi nghe tiếng Thomas cười khẽ, và có thể hình dung ra vẻ mặt ngỡ ngàng của Noah. Đột nhiên, tôi cảm thấy mình mạnh mẽ lên gấp vạn lần.


Gieo mình xuống chiếc ghế bên cạnh Mike, tôi đề cập đến chuyến đi về thành phố cũ trong vài ngày tới.


- Cậu có chắc người cậu cần tìm ở thành phố đó không?


- Manh mối duy nhất, Mike ạ.


- Vậy là cậu đã quyết định?


- Vâng.


Ông gượng cười, vẫn nụ cười như đã bị sự u uất ăn mòn suốt bao nhiêu lâu nay. Ông là ân nhân của tôi, là gia đình của tôi, vì thế tôi đã chạnh lòng khi nghĩ đến việc sẽ để ông cô độc giữa biển sách này. Ai sẽ leo lên những bậc thang để lau bụi các quyển sách? Ai sẽ uống rượu mỗi đêm với ông? Ai sẽ hiện diện trong ngôi nhà kiêm hiệu sách cũ này chỉ để làm ông vơi bớt nỗi cô đơn? Nghĩ vậy, tôi lại chẳng buồn rời khỏi đây nữa. Nhưng, linh hồn tôi như muốn xé toạc thể xác ra để mà chạy trốn. Trong vòng tuần hoàn của đêm đen, những cơn ác mộng luôn ám ảnh tôi: tiếng thét, lời nguyền rủa, lời trách móc, tiếng khóc đau đớn ập đến khiến tôi nhiều lần phải thức trắng. Tôi hiểu, trước khi làm chỗ dựa tinh thần cho ai đó, tôi phải tự cứu lấy chính mình.


Gió bất chợt hùng hổ tràn qua cánh cửa lớn, thổi tung mái tóc muối tiêu của Mike, những nếp nhăn hằn rõ trên trán lẫn nơi khóe mắt mỏi mệt. Tôi nhận ra ông chủ của tôi đã già rồi. Có lần, tôi tò mò

2hi.us