Truyện Ngắn - Máu Của Tuyết
Tác giả: Sưu Tầm
Truyện Ngắn - Máu Của Tuyết
tạm cư, bất chấp tất cả mọi nỗ lực, cố gắng, khẩn cầu tuyệt vọng. Hắn biết, điều này sẽ xảy ra, bởi từ khi chính phủ phái hữu lên nắm quyền, chính sách đối với dân nhập cư càng bị siết chặt. Có nhiều người nước ngoài là giám đốc những công ti làm ăn ổn định, đóng thuế cao ngất từ dăm bảy năm nay còn bị từ chối cấp thẻ tạm cư, thì cái thứ tù tội như hắn xem ra sẽ chỉ là một con dê còi tế thần mà thôi. Dù đã biết trước cái kết cục chua xót ấy, nhưng hắn vẫn chết lặng như bị ai đó cầm dao ngoáy thẳng vào tim. Nguồn cơn của sự đau đớn ấy chính là thằng bé. Về phần mình, hắn hiểu rằng cơn mưa vàng hiếm hoi nhờ sự thay đổi thời cuộc đem lại đã không rơi vào chiếc bị cói là hành trang của kẻ hành khất mỏi cổ mơ về một cuộc đổi đời. Và nó sẽ không bao giờ đến nữa. Lẽ ra hắn có thể thanh thản hồi hương phụng dưỡng bà mẹ già ngoại bảy mươi đang ngong ngóng đợi con về từ hơn chục năm nay, kể từ khi hắn tốt nghiệp đại học. Nhưng còn Tomek, hắn không thể để thằng bé ở lại đất này…
Vẫn đều đặn hai tuần một lần, hắn lên trại mồ côi thăm con. Bao giờ thằng bé cũng lầm lũi đứng ngóng sẵn ở cổng, bên cạnh thanh barie. Dường như những cuộc gặp gỡ này
đã cho nó thêm niềm tin để chống chọi với cuộc sống cực khổ, tủi nhục giữa đám trẻ da trắng bụi đời. Có lần thấy thằng bé bầm tím một bên mắt, hỏi ra mới biết tụi trẻ vào hùa bắt nạt, cướp phần thức ăn ít ỏi của thằng “mọi vàng”. Tomek tuyệt vọng giành lại miếng bánh mì của mình thì bị lĩnh trận đòn hội đồng. Nó ngã quị dưới những cú đấm, đạp. Ngồi lặng ôm con bên bãi cỏ trước sân trại, xoa bên má sưng vù của thằng bé, hắn chết lặng mà vẫn phải cười làm ra vẻ không có chuyện gì đáng kể. Rồi giơ tay lột hết áo sống, nhìn thẳng vào mắt con, hắn chỉ cho nó xem những vết sẹo nhằng nhịt ở trước bụng và hai bên mạng sườn mình.
-Con trai! Từ trước đến nay, bố mới chỉ nói với con về tình yêu và lòng nhân ái. Bố quên mất một điều mà lẽ ra phải dạy con từ những ngày đầu tiên khi bước chân vào đây: Con phải biết đương đầu để bảo vệ mình , phải biết chiến đấu với kẻ độc ác… Con hãy nhìn những vết sẹo trên người bố và nhớ rằng, bố còn sống được đến giờ phút này là bởi đã không chịu để kẻ khác khuất phục. Con cũng không có bất kì một sự lựa chọn nào khác. Hãy nắm chặt tay vào và xông lên, chàng trai ạ!
Thằng bé nhìn trừng trừng vào những vệt chém ngang dọc trên thân thể của hắn, lặng lẽ không nói gì. Hai tuần lên thăm, hắn thấy Tomek đầu lại quấn băng, mặt xước nhằng nhịt, nhưng cặp mắt vô cùng bình thản, không còn vẻ hoảng hốt trước kia. Ông bảo vệ già mau mồm kể lại những trận kịch chiến nảy lửa giữa Tomek với đám trẻ đầu gấu. Quen mui tưởng bở, buổi tối ngay sau hôm hắn về, tụi kia xông đến đòi cướp những phần quà bánh hắn mua cho Tomek, nhưng chúng há mồm không kịp trở tay, bởi thay vì lặng lẽ cống nạp và ấm ức khóc như mọi bận, Tomek lăm lăm hai tay hai hòn đá được mài nhọn hoắt phang túi bụi. Bốn đứa đổ máu, răng rơi lả tả. Bọn còn lại thất kinh, đạp lên nhau mà chạy. Tomek bị phạt cách li ba hôm. Nhưng vừa thoát ra, nó lại kiếm một hòn đá khác và tiếp tục lùng sục. Lại bị phạt. Hết án, lại có thằng bị vỡ đầu, sứt tai. Đánh ngày chưa đủ, nó chuyển sang đánh đêm. Sau mươi ngày, thì dù đồ ăn của Tomek có để mốc ra, cũng chẳng đứa nào dám thò tay lấy.
Hắn nghe chuyện và bảo Tomek:
-Thôi, thế đủ rồi! Đừng bao giờ dồn ai vào chân tường cả!
Thằng bé khụt khịt mũi, lặng lẽ gật đầu. Những lần sau, hắn không còn nghe thấy chuyện đấm đá gì nữa…. Mùa xuân đến, mỗi lần lên trại, hai cha con thường dắt tay nhau lững thững đi dạo băng quả cánh rừng. Tomek đã nói được khá sõi tiếng Việt qua nhiều cuộc chuyện trò với hắn. Nó vốn là một đứa trẻ thông minh nên học rất nhanh. Một lần nó nói rành rọt bằng tiếng Việt:
-Bố, bao giờ mình về Việt Nam? Con không muốn ở đây!
-Sao thế? Có chuyện gì vậy? – Hắn tò mò hỏi.
-Đây không phải là quê mình!
Hắn lảng không trả lời vì khi ấy còn đang hồi hộp hy vọng toà án sẽ công nhận hắn là cha của Tomek để có thể nhjâp lại quốc tịch cho nó.
Thế mà giờ đây, hắn chỉ còn được phép ở lại đất này 48 giờ đồng hồ…
Hắn vẫn nhìn trân trân vào trang visa trục xuất có hình con đại bàng ngạo nghễ. Mấy hôm nay, cộng đồng dân nhập cư thuộc đủ các sắc tộc nhốn nháo vì những đợt lùng bắt của cảnh sát và lính biên phòng. Lại chạy như vịt, lại trốn chui, trốn lủi. Đài báo, tivi liên tục thông báo kết quả các cuộc bố ráp ở thủ đô, những thành phố lớn và các tỉnh miền biên giới để khẳng định chính sách cứng rắn của chính phủ phái hữu với đám dân nhập cư như để ghi điểm trước đám cử tri đã bỏ phiếu cho họ.
Phải rồi…Tại sao hắn không nghĩ ra nhỉ? Bỗng hắn bật dậy, nhảy cẫng lên vui mừng.
Suốt ba ngày, hắn chạy ngược xuôi thu xếp xongcông nợ, vun vén tất cả những gì còn lại nhờ người chuyển về Việt Nam và lên trại mồ côi tìm Tomek…
° ° °
Sân bay quốc tế Okecia – Warsaw. Một sáng mùa xuân.
Đám hành khách ngả ngốn khó chịu, bực dọc trong phòng đợi chuyến máy bay của Hãng hàng không Nga Aeroflot bị chậm lại hai tiếng vì lí do kĩ thuật. Tiếng thở dài, ca thán vang lên theo phản ứng dây chuyền.
Trong góc, viên trung sĩ biên phòng ngồi đăm chiêu suy nghĩ. Anh ta thức suốt phiên trực đêm qua, lẽ ra giờ này đã được nằm trong chăn ấm với cô vợ mới cưới căng mọng, núng nính, thơm phức như miếng bánh ga tô. Thế mà cái lão đại úy chết tiệt, tự dưng gọi điện ra lệnh phải ở lại áp tải hai người nước ngoài bị trục xuất lên máy bay. Nhận lệnh cấp trên, trung sĩ điên tiết, nhưng cũng chỉ biết lắc đầu chửi đổng. Mẹ khỉ, tại sao người ta cứ nhè phiên trực của mình để trục xuất cái đám nhập cư bất hợp pháp này nhỉ? Lại phải nhìn thấy những hình hài lếch thếch, những khuôn mặt méo mó, đau khổ, đầy vẻ tuyệt vọng vì giấc mộng vàng nửa đường đứt gánh. Trong cuộc đời quân ngũ của mình, trung sĩ đã nhiều lần nao lòng trước đám người khốn khổ, tội nghiệp và đáng thương ấy. Kinh Thánh rao giảng, tất cả mọi sinh linh đều được bình đẳng trước Chúa, vậy tại sao đám chính khách máu lạnh chỉ giỏi đấu đá và tham nhũng kia không để cho con người được bình đẳng với nhau? Tại sao không để cho mỗi người được quyền lựa chọn mảnh đất sống thích hợp trong kiếp nhân gian này? Vô cùng chán chường với mệnh lệnh bất đắc dĩ của thượng cấp, nhưng khi xe chở phạm nhân đến, viên trung sĩ thực sự bị bất ngờ. Vì trái với những gì hình dung, trước mặt trung sĩ là hai cha con người Việt. Họ lịch sự, tươi rói, hớn hở như thể chuẩn bị được đi gặp Đức Giáo Hoàng, chứ không phải là cái còng số 8 đang ôm lấy cổ tay người cha. Luật là thế, những người bị trục xuất đã ở tuổi trưởng thành, dù chẳng gây nên tội lỗi gì đe dọa nền an ninh quốc gia hay cộng đồng, xã hội, đều vẫn bị khóa số 8. Thằng bé mặt mũi lanh lợi, kháu khỉnh quấn quít bên cha. Nó xăng xái, tung tăng như một con chim sổ lồng, lúc mở chai nước cầm cho bố uống, lúc đưa tay gãi lưng, gãi cổ cho ông ta. Người cha ngồi một chỗ, nhìn con bằng ánh mắt ấm áp, trìu mến.
Lặng lẽ quan sát hai cha con, viên trung sĩ thấy họ thật đáng mến. Rồi anh chợt áy náy vì những gì mình phải làm. Trung sĩ nhìn quanh, khẽ hỏi người cha:
-Ông có muốn tôi tháo còng ra cho dễ chịu không? Đằng nào thì cũng chả có ai ngoài chúng ta.
Người đàn ông mỉm cười, khẽ nghiêng đầu:
-Cảm ơn trung sĩ. Xin ông đừng bận tâm đến tôi kẻo bị liên lụy. Đằng nào thì cũng chỉ conø ít phút nữa, khi lên máy bay là tôi được tự do rồi mà!
Ngạc nhiên vì lối phát âm rất chuẩn xác, viên trung sĩ hỏi chuyện, mới biết ông ta đã tốt nghiệp đại học ở Ba lan và tổng cộng đã ở đất nước này mười lăm năm. Người đàn ông này thông thạo tình hình chính trị, xã hội, lịch sử, tôn giáo như một trí thức Ba Lan. Thậm chí, có những vấn đề bản thân trung sĩ chỉ nghe loáng thoáng hoặc hiểu một cách mù mờ, thì ông ta nói vanh vách. Lạy Chúa! Viên trung sĩ không thể hiểu: tại sao người ta lại trục xuất một người đã sống ở đất nước của anh ta một phần tư quãng đời, đã được hấp thụ nền văn hóa, giáo dục mà không phải công dân Ba lan nào cũng may mắn được hưởng ấy? Còn đứa nhỏ, nó hệt như những đứa trẻ con Ba Lan từ lời ăn tiếng nói, dáng điệu, cử chỉ, ngoại trừ màu da, màu tóc. Nhưng điều ấy có quan trọng gì? Tất cả chúng ta đều là con người kia mà? Ôi, giá như ta không phải là một tay trung sĩ quèn, thì ta đã thả quách họ ra và cầu chúc cho họ
thượng lộ bình an trong nước Chúa mênh mông, thanh bình!
Đám hành khách lại ồ lên, nhốn nháo xếp hàng chờ ra cửa khi nghe loa thông báo máy bay đã chuẩn bị cất cánh. Hai cha con người đàn ông vui mừng đứng dậy. Trung sĩ nhanh chóng bước tới người cha, rút chìa khóa giải phóng cho đôi tay của ông ta khỏi chiếc còng số 8 oan nghiệt. Người đàn ông lịch thiệp cảm ơn rồi khoan khoái cử động hai cổ tay. Thở dài nhẹ nhõm vì đã hoàn thành nhiệm vụ bất đắc dĩ với hai con người đã gây cho anh ta mối thiện cảm, trung sĩ chìa tay:
-Tạm biệt! Chúc thượng lộ bình an! Mong rằng ông sẽ quên đi những kỉ niệm buồn ở đây và gặp may mắn trên đất Mẹ!
Người đàn ông nắm chặt tay trung sĩ:
-Cảm ơn ông! Rất vui vì người Ba Lan cuối cùng mà tôi được làm quen lại là ông, một người lịch thiệp và tốt bụng. Chúc ông mọi điều tốt lành!
Họ chia tay nhau lưu luyến như những người quen biết từ lâu. Trung sĩ đứng ngẩn nhìn theo hai cha con tung tăng lẫn trong đám hành khách đang tản bộ trên đường băng, nởû một nụ cười và khẽ giơ tay làm dấu thánh.
Trên đường băng, hắn đang kiệu thằng bé trên vaiû. Tomek thích thú phóng tầm mắt ngắm nghía những chiếc máy bay to như tòa nhà. Chợt nó hỏi:
-Bố ơi, về Việt Nam thì tên con sẽ là Tuấn hay Tomek?
Hắn vỗ vỗ vào chân thằng nhỏ, mỉm cười:
-Con sẽ lấy lại tên cũ là Tuấn. Nhưng với bố, con mãi mãi là Tomek. Con trai ạ!
Thằng bé lẩm bẩm:
-Tuấn- Tomek. Tuấn –Tomek…
Và nó bật cười khanh khách. Tiếngï cười mà hắn chưa từng được nghe kể từ khi biết thằng bé.
Hít căng lồng ngực, hắn ngẩng mặt lên bầu trời cao vòi vọi, đưa mắt nhìn xung quanh rồi quì xuống đặt tay lên mặt đất, thì thầm:
-Vĩnh biệt mảnh đất mà ta đã sống những tháng năm tuổi trẻ! Vĩnh biệt một phần đời đẹp đẽ, hạnh phúc nhưng cũng đầy đắng cay! Vĩnh biệt những người đàn bà đã đi qua cuộc đời ta! Vĩnh biệt tất cả!
Đám hành khách lục tục bước lên cầu thang máy bay. Hắn hạ thằng nhỏ xuống đất và dắt tay nó bước lên nấc thang đầu tiên.
Chợt có tiếng huyên náo từ phía sau vọng tới, một tiếng quát:
-Dừng lại!
Hắn thờ ơ quay đầu nhìn. Năm sáu cảnh sát đang hấp tấp chạy tới. Cùng với họ một người đàn bà tay cầm xấp giấy dày cộp. Hắn đờ người sợ hãi khi nhận ra đó là giám đốc trại trẻ. Bà ta chạy đến bên Tomek, hổn hển nói với đám cảnh sát:
-Cháu nhỏ này là công dân của chúng ta, nó không thể bị trục xuất!
Rất nhanh, Tomek hiểu ngay sự tình, gào lên:
-Không, tôi là người Việt nam!
Bà giám đốc giằng tay nó:
-Tomek, cháu là người Ba Lan! Cháu ở lại đây!
Một viên cảnh sát tiến đến, đưa tay bế bổng thằng nhỏ.
Thằng bé giãydụa, la hét như cố thoát khỏi vòng tay của bà giám đốc và người cảnh sát.
-Thả tôi ra, tôi là người Việt nam!...Bố, cứu con với!
Hàng trăm hành khách của chuyến bay ngây người đứng nhìn. Họ không hiểu điều gì đang xảy ra. Sau một thoáng đờ đẫn, hắn sực tỉnh, lao vào viên cảnh sát đang cố bế Tomek:
-Buông ra. Nó là con tôi! Các người không được cướp con của tôi!
Như được tiếp thêm sức mạnh, Tomek vùng ra khỏi đôi tay viên cảnh sát, chạy đến bên cha. Hai cha con ôm chặt lấy nhau.
Lập tức, ba cảnh sát khỏe mạnh xông đến ghì tay hắn lại. Giằng thằng béû ra. Tomek vừa quẫy, vừa gào:
-Tôi là người Việt Nam! Tôi muốn về nhà!
Như điên dại, hai cha con hắn vẫy vùng, quẫy đạp, cắn xé những bàn tay cứng như sắt đang ghì níu, tách họ xa nhau ra. Hắn gồng người, nhoài bàn tay ra phía thằng bé.
-Tomek, con!
Giọng hắn lạc đi.
-Bố…Đừng bỏ con!
Thằng bé cũng cố nhoài người nắm lấy bàn tay cha, nức nở.
Nhưng hai bàn tay, một lớn, một bé từ từ buông rời nhau ra và bị kéo xa về hai phía. Ba viên cảnh sát lôi hắn xềnh xệch lên cầu thang máy bay. Hắn vật lộn, tru lên như một con vật bị chọc tiết:
-Con tôi! Trả con cho tôi!
Ở dưới đất, Tomek cũng bị giữ chặt. Người ta đang cố lôi nó ra xe trở lại thành phố.
-Bố ơi!
Thằng bé khóc lặng đi không còn hơi trong cơn tuyệt vọng cùng cực. Mái tóc bết lại vì mồ hôi và gương mặt đỏ rực cố ngoái đầu nhìn về cầu thang máy bay nơi bố nó rũ người như tàu la đangù bị lôi đi xềnh xệch.
Bất chợt không hiểu sức mạnh nào khiến hắn vùng thoát khỏi sáu cánh tay đang gìm giữ thân thể mình, chạy xúông mấy bậc cầu thang máy bay và gào lên:
-Con… đừng khóc! Bố... sẽ… quay… lại… tìm… con…!
Lại sáu cánh tay túm lấy hắn ấn ngược vào phía trong thân máy bay. Cánh cửa máy bay đóng sập lại.
-Bố ơi…!
Thằng bé giãy dụa, thét lên lần cuối rồi lịm đi.
° ° °
Hắn thẫn thờ đứng trước con kênh nhỏ chảy lờ đờ, đen kịt bốc lên cái mùi khăn khẳn quen thuộc mà người ta vẫn quen miệng gọi là con sông Thối. Ngày trước, khi còn là thằng nhóc thò lò mũi xanh, hằng ngày hắn vẫn theo đám bạn ngâm mình xuống dòng nước mang màu chè đỗ đen này, cắm mặt xuống đám bùn tìm những búi giun vớt về nuôi cá chọi. Trong bước đường lưu lạc của mình, hắn đã đắm mình vẫy vùng như con rái cá trên sóng nước Vonga, bỡn cợt với những con sóng bạc đầu biển Baltich, nhưng thi thoảng, vẫn nhớ về dòng sông tuổi thơ nông choèn, đen kịt và nặng mùi thum thủm. Gần ba mươi năm đã trôi qua, dòng sông vẫn thế. Vẫn lờ đờ, thiếu sinh khí, rác rưởi ngập ngụa. Khác chăng, bây giờ người ta đã kè đá hai bên bờ sông, và trồng thêm hàng cây còi cọc mãi chẳng lớn được vì lúc nào cũng ướt sũng nước tiểu của khách bộ hành.
Đã nửa năm nay, suốt ngày, hắn cứ ngẩn ngơ, tha thẩn bên bờ sông Thối như một kẻ vô gia cư. Lúc đầu, những người bán hàng gần đó nhìn hắn bằng cặp mắt đầy cảnh giác. Nhưng dần dần, nhìn vẻ mặt hiền lành, dài dại của hắn, họ lại thấy thương, vì cứ ngỡ rằng đây là một kẻ mắc bệnh tâm thần vì học nhiều quá đâm ngộ chữ. Dần dà, hắn còn mua chịu được cả vài chén nước chè và dăm ba điếu thuốc vặt. Thậm chí, thi thoảng, hắn còn kể cho họ nghe về những tháng năm đã sống ở nước ngoài và còn giở cả ảnh của một thằng bé ra khoe là con của hắn. Người ta nghe cho đỡ buồn lúc vắng khách vậy thôi… Có kẻ chép miệng nói vui, thằng này dở người, mắc chứng tâm thần phân liệt hoang tưởng gì đó, chứ nước ngoài, nước trong gì cái ngữ này? Rõ khổ!...
Người đau nát cõi lòng là mẹ hắn. Khi hắn trở về với mái tóc dài cờm cợp, khuôn mặt hốc hác đầy râu ria, bộ dạng xiêu vẹo và cái túi nilon đựng một bộ quần áo hôi rình, như thể hắn vừa từ hang động vùng Tây Tạng trở về chứ không phải thằng con trai khôi ngô đi du học trời tây mà bà hằng hãnh diện… Cớ sao ra nỗng nỗi này? Thôi thì cuối cùng đứa con trai duy nhất của dòng họ Trần đã trở về. Bõ công bao năm bà ăn chay, thành tâm cầu xin Phật bà Quan Âm phù hộ... Dù sao nó cũng đã trở về.
Nhưng niềm vui của bà như chớp mắt. Từ ngày về nước thằng con bà thẫn thơ, thờ thẫn như kẻ tâm thần. Ngồi nói chuyện với bà, nhưng tâm trí cứ để tận đẩu đâu. Mắt nhìn về nơi xa lắc nào đó, dài dại, khổ sở… Có lúc nó đi biệt từ sáng đến tối. Hỏi thì ậm ờ, lúng búng nghe mãi chả hiểu nó nói gì? Nhiều đêm lại ngồi lặng hàng giờ trước bức ảnh một thằng bé mà nó bảo là con… Hỏi con thế nào thì nó bảo sau này mẹ khắc biết. Khổ quá, biết gì đây? Cứ thế này nó rạc rài, mòn mỏi và sẽ kiệt sức mất thôi. Mà nó làm sao thì bà sống sao nổi. Nhìn con héo hắt, lòng bà xót như xát muối. Những đêm phòng con sáng ánh đèn, nghe tiếng trở mình vật vã, bà
cũng thức cùng nó... Phải hỏi cho ra nhẽ.
° ° °
Hôm nay, bà đi chợ từ sớm, mua hương hoa, lễ vật khấn tổ tiên và ra bờ sông Thối tìm con...
Nghe lời mẹ, hắn cúi đầu đảnh lễ trước ban thờ. Chờ tuần hương tàn, bà pha ấm nước trà và chỉ chỗ chô hắn:
-Anh ngồi xuống đây để mẹ nói chuyện.
Hắn hồi hộp nhìn vẻ mặt nghiêm trang của mẹ. Hắn bỗng thấy sờ sợ… Bà ít khi như thế này. Từ nhỏ đến giờ hắn mới nhìn thấy hai lần mẹ có gương mặt như vậy. Lần này là thứ ba…
Bà rót nước ra chén:
-Anh uống đi.
Hắn nhấp ngụm trà nóng bỏng lưỡi, ngan ngát vị sen ướp.
Bà mẹ ngước nhìn hắn vẻ nghiêm khắc:
-Anh còn đợi gì nữa mà không đi đón thằng bé về đây?
Hắn ớ người nhìn bà. Bà mẹ vẫn nhìn hắn bằng cái nhìn nghiêm nghị.
-Mẹ hiểu cả rồi. Anh đang tìm cách quay lại đón thằng bé phải không?
-Vâng, nhưng… - Hắn ấp úng - Phải có tiền thì mới sang đó đón cháu được, mẹ ạ! Mà số tiền ấy so với gia cảnh nhà mình quá lớn. Những bảy chục triệu…
Giọng hắn nghèn nghẹt và suýt bật khóc như trẻ con nhưng cố kìm lại được.
-Mẹ biết…
Bà thừ người… Bảy chục triệu! Góa chồng từ khi ba đứa con còn đỏ hon hỏn, giật gấu vá vai chạy ăn từng bữa để nuôi chúng. Cho tới tận bây giờ, kể cả trong mơ, chưa bao giờ bà nhìn thấy từng ấy tiền.
-Mẹ biết… đúng là cả cuộc đời, chưa bao giờ mẹ có số tiền ấy. Nhưng mẹ sẽ có cách!
Hắn ngỡ ngàng nhìn bà.
-Mẹ…
Bà từ từ đứng dậy, tiến tới chân ban thờ, khom người lôi ra chiếc hộp gỗ.
Cái hộp ấy, hắn quá biết. Nó là nơi cất giữ những kỉ vật của gia đình.Hắn đã mở ra hàng trăm lần, nhưng ngoài tờ giấy kết hôn của cha mẹ, giấy khai sinh của anh em hắn, những tấm huân chương và tờ giấy báo tử cha, thì vật duy nhất có giá trị chỉ là đôi nhẫn cưới mà mẹ chắt chiu giành dụm đợi khi hắn lấy vợ. Mà đôi nhẫn ấy có bán đi, quá lắm được hơn triệu bạc.
Bàn tay nhăn nheo run run mở nắp rồi thò vào khua khoắng… Lát sau trên tay bà là mấy tờ giấy đã ố vàng.
-Tiền đây, anh cầm lấy!
Hắn nhìn trừng trừng vào đôi tay khẳng khiu, run run của mẹ… Ở trên đó là cuốn sổ đỏ chứng nhận quyền sử dụng mảnh đất của tổ tiên, dòng họ Trần…
° ° °
Ba tháng sau…
Vào một đêm mùa hạ mưa như thác đổ, có một toán người vượt biên giới từ Ukraina vào Ba Lan. Lẫn trong đám người đó – có hắn!
Vẫn đều đặn hai tuần một lần, hắn lên trại mồ côi thăm con. Bao giờ thằng bé cũng lầm lũi đứng ngóng sẵn ở cổng, bên cạnh thanh barie. Dường như những cuộc gặp gỡ này
đã cho nó thêm niềm tin để chống chọi với cuộc sống cực khổ, tủi nhục giữa đám trẻ da trắng bụi đời. Có lần thấy thằng bé bầm tím một bên mắt, hỏi ra mới biết tụi trẻ vào hùa bắt nạt, cướp phần thức ăn ít ỏi của thằng “mọi vàng”. Tomek tuyệt vọng giành lại miếng bánh mì của mình thì bị lĩnh trận đòn hội đồng. Nó ngã quị dưới những cú đấm, đạp. Ngồi lặng ôm con bên bãi cỏ trước sân trại, xoa bên má sưng vù của thằng bé, hắn chết lặng mà vẫn phải cười làm ra vẻ không có chuyện gì đáng kể. Rồi giơ tay lột hết áo sống, nhìn thẳng vào mắt con, hắn chỉ cho nó xem những vết sẹo nhằng nhịt ở trước bụng và hai bên mạng sườn mình.
-Con trai! Từ trước đến nay, bố mới chỉ nói với con về tình yêu và lòng nhân ái. Bố quên mất một điều mà lẽ ra phải dạy con từ những ngày đầu tiên khi bước chân vào đây: Con phải biết đương đầu để bảo vệ mình , phải biết chiến đấu với kẻ độc ác… Con hãy nhìn những vết sẹo trên người bố và nhớ rằng, bố còn sống được đến giờ phút này là bởi đã không chịu để kẻ khác khuất phục. Con cũng không có bất kì một sự lựa chọn nào khác. Hãy nắm chặt tay vào và xông lên, chàng trai ạ!
Thằng bé nhìn trừng trừng vào những vệt chém ngang dọc trên thân thể của hắn, lặng lẽ không nói gì. Hai tuần lên thăm, hắn thấy Tomek đầu lại quấn băng, mặt xước nhằng nhịt, nhưng cặp mắt vô cùng bình thản, không còn vẻ hoảng hốt trước kia. Ông bảo vệ già mau mồm kể lại những trận kịch chiến nảy lửa giữa Tomek với đám trẻ đầu gấu. Quen mui tưởng bở, buổi tối ngay sau hôm hắn về, tụi kia xông đến đòi cướp những phần quà bánh hắn mua cho Tomek, nhưng chúng há mồm không kịp trở tay, bởi thay vì lặng lẽ cống nạp và ấm ức khóc như mọi bận, Tomek lăm lăm hai tay hai hòn đá được mài nhọn hoắt phang túi bụi. Bốn đứa đổ máu, răng rơi lả tả. Bọn còn lại thất kinh, đạp lên nhau mà chạy. Tomek bị phạt cách li ba hôm. Nhưng vừa thoát ra, nó lại kiếm một hòn đá khác và tiếp tục lùng sục. Lại bị phạt. Hết án, lại có thằng bị vỡ đầu, sứt tai. Đánh ngày chưa đủ, nó chuyển sang đánh đêm. Sau mươi ngày, thì dù đồ ăn của Tomek có để mốc ra, cũng chẳng đứa nào dám thò tay lấy.
Hắn nghe chuyện và bảo Tomek:
-Thôi, thế đủ rồi! Đừng bao giờ dồn ai vào chân tường cả!
Thằng bé khụt khịt mũi, lặng lẽ gật đầu. Những lần sau, hắn không còn nghe thấy chuyện đấm đá gì nữa…. Mùa xuân đến, mỗi lần lên trại, hai cha con thường dắt tay nhau lững thững đi dạo băng quả cánh rừng. Tomek đã nói được khá sõi tiếng Việt qua nhiều cuộc chuyện trò với hắn. Nó vốn là một đứa trẻ thông minh nên học rất nhanh. Một lần nó nói rành rọt bằng tiếng Việt:
-Bố, bao giờ mình về Việt Nam? Con không muốn ở đây!
-Sao thế? Có chuyện gì vậy? – Hắn tò mò hỏi.
-Đây không phải là quê mình!
Hắn lảng không trả lời vì khi ấy còn đang hồi hộp hy vọng toà án sẽ công nhận hắn là cha của Tomek để có thể nhjâp lại quốc tịch cho nó.
Thế mà giờ đây, hắn chỉ còn được phép ở lại đất này 48 giờ đồng hồ…
Hắn vẫn nhìn trân trân vào trang visa trục xuất có hình con đại bàng ngạo nghễ. Mấy hôm nay, cộng đồng dân nhập cư thuộc đủ các sắc tộc nhốn nháo vì những đợt lùng bắt của cảnh sát và lính biên phòng. Lại chạy như vịt, lại trốn chui, trốn lủi. Đài báo, tivi liên tục thông báo kết quả các cuộc bố ráp ở thủ đô, những thành phố lớn và các tỉnh miền biên giới để khẳng định chính sách cứng rắn của chính phủ phái hữu với đám dân nhập cư như để ghi điểm trước đám cử tri đã bỏ phiếu cho họ.
Phải rồi…Tại sao hắn không nghĩ ra nhỉ? Bỗng hắn bật dậy, nhảy cẫng lên vui mừng.
Suốt ba ngày, hắn chạy ngược xuôi thu xếp xongcông nợ, vun vén tất cả những gì còn lại nhờ người chuyển về Việt Nam và lên trại mồ côi tìm Tomek…
° ° °
Sân bay quốc tế Okecia – Warsaw. Một sáng mùa xuân.
Đám hành khách ngả ngốn khó chịu, bực dọc trong phòng đợi chuyến máy bay của Hãng hàng không Nga Aeroflot bị chậm lại hai tiếng vì lí do kĩ thuật. Tiếng thở dài, ca thán vang lên theo phản ứng dây chuyền.
Trong góc, viên trung sĩ biên phòng ngồi đăm chiêu suy nghĩ. Anh ta thức suốt phiên trực đêm qua, lẽ ra giờ này đã được nằm trong chăn ấm với cô vợ mới cưới căng mọng, núng nính, thơm phức như miếng bánh ga tô. Thế mà cái lão đại úy chết tiệt, tự dưng gọi điện ra lệnh phải ở lại áp tải hai người nước ngoài bị trục xuất lên máy bay. Nhận lệnh cấp trên, trung sĩ điên tiết, nhưng cũng chỉ biết lắc đầu chửi đổng. Mẹ khỉ, tại sao người ta cứ nhè phiên trực của mình để trục xuất cái đám nhập cư bất hợp pháp này nhỉ? Lại phải nhìn thấy những hình hài lếch thếch, những khuôn mặt méo mó, đau khổ, đầy vẻ tuyệt vọng vì giấc mộng vàng nửa đường đứt gánh. Trong cuộc đời quân ngũ của mình, trung sĩ đã nhiều lần nao lòng trước đám người khốn khổ, tội nghiệp và đáng thương ấy. Kinh Thánh rao giảng, tất cả mọi sinh linh đều được bình đẳng trước Chúa, vậy tại sao đám chính khách máu lạnh chỉ giỏi đấu đá và tham nhũng kia không để cho con người được bình đẳng với nhau? Tại sao không để cho mỗi người được quyền lựa chọn mảnh đất sống thích hợp trong kiếp nhân gian này? Vô cùng chán chường với mệnh lệnh bất đắc dĩ của thượng cấp, nhưng khi xe chở phạm nhân đến, viên trung sĩ thực sự bị bất ngờ. Vì trái với những gì hình dung, trước mặt trung sĩ là hai cha con người Việt. Họ lịch sự, tươi rói, hớn hở như thể chuẩn bị được đi gặp Đức Giáo Hoàng, chứ không phải là cái còng số 8 đang ôm lấy cổ tay người cha. Luật là thế, những người bị trục xuất đã ở tuổi trưởng thành, dù chẳng gây nên tội lỗi gì đe dọa nền an ninh quốc gia hay cộng đồng, xã hội, đều vẫn bị khóa số 8. Thằng bé mặt mũi lanh lợi, kháu khỉnh quấn quít bên cha. Nó xăng xái, tung tăng như một con chim sổ lồng, lúc mở chai nước cầm cho bố uống, lúc đưa tay gãi lưng, gãi cổ cho ông ta. Người cha ngồi một chỗ, nhìn con bằng ánh mắt ấm áp, trìu mến.
Lặng lẽ quan sát hai cha con, viên trung sĩ thấy họ thật đáng mến. Rồi anh chợt áy náy vì những gì mình phải làm. Trung sĩ nhìn quanh, khẽ hỏi người cha:
-Ông có muốn tôi tháo còng ra cho dễ chịu không? Đằng nào thì cũng chả có ai ngoài chúng ta.
Người đàn ông mỉm cười, khẽ nghiêng đầu:
-Cảm ơn trung sĩ. Xin ông đừng bận tâm đến tôi kẻo bị liên lụy. Đằng nào thì cũng chỉ conø ít phút nữa, khi lên máy bay là tôi được tự do rồi mà!
Ngạc nhiên vì lối phát âm rất chuẩn xác, viên trung sĩ hỏi chuyện, mới biết ông ta đã tốt nghiệp đại học ở Ba lan và tổng cộng đã ở đất nước này mười lăm năm. Người đàn ông này thông thạo tình hình chính trị, xã hội, lịch sử, tôn giáo như một trí thức Ba Lan. Thậm chí, có những vấn đề bản thân trung sĩ chỉ nghe loáng thoáng hoặc hiểu một cách mù mờ, thì ông ta nói vanh vách. Lạy Chúa! Viên trung sĩ không thể hiểu: tại sao người ta lại trục xuất một người đã sống ở đất nước của anh ta một phần tư quãng đời, đã được hấp thụ nền văn hóa, giáo dục mà không phải công dân Ba lan nào cũng may mắn được hưởng ấy? Còn đứa nhỏ, nó hệt như những đứa trẻ con Ba Lan từ lời ăn tiếng nói, dáng điệu, cử chỉ, ngoại trừ màu da, màu tóc. Nhưng điều ấy có quan trọng gì? Tất cả chúng ta đều là con người kia mà? Ôi, giá như ta không phải là một tay trung sĩ quèn, thì ta đã thả quách họ ra và cầu chúc cho họ
thượng lộ bình an trong nước Chúa mênh mông, thanh bình!
Đám hành khách lại ồ lên, nhốn nháo xếp hàng chờ ra cửa khi nghe loa thông báo máy bay đã chuẩn bị cất cánh. Hai cha con người đàn ông vui mừng đứng dậy. Trung sĩ nhanh chóng bước tới người cha, rút chìa khóa giải phóng cho đôi tay của ông ta khỏi chiếc còng số 8 oan nghiệt. Người đàn ông lịch thiệp cảm ơn rồi khoan khoái cử động hai cổ tay. Thở dài nhẹ nhõm vì đã hoàn thành nhiệm vụ bất đắc dĩ với hai con người đã gây cho anh ta mối thiện cảm, trung sĩ chìa tay:
-Tạm biệt! Chúc thượng lộ bình an! Mong rằng ông sẽ quên đi những kỉ niệm buồn ở đây và gặp may mắn trên đất Mẹ!
Người đàn ông nắm chặt tay trung sĩ:
-Cảm ơn ông! Rất vui vì người Ba Lan cuối cùng mà tôi được làm quen lại là ông, một người lịch thiệp và tốt bụng. Chúc ông mọi điều tốt lành!
Họ chia tay nhau lưu luyến như những người quen biết từ lâu. Trung sĩ đứng ngẩn nhìn theo hai cha con tung tăng lẫn trong đám hành khách đang tản bộ trên đường băng, nởû một nụ cười và khẽ giơ tay làm dấu thánh.
Trên đường băng, hắn đang kiệu thằng bé trên vaiû. Tomek thích thú phóng tầm mắt ngắm nghía những chiếc máy bay to như tòa nhà. Chợt nó hỏi:
-Bố ơi, về Việt Nam thì tên con sẽ là Tuấn hay Tomek?
Hắn vỗ vỗ vào chân thằng nhỏ, mỉm cười:
-Con sẽ lấy lại tên cũ là Tuấn. Nhưng với bố, con mãi mãi là Tomek. Con trai ạ!
Thằng bé lẩm bẩm:
-Tuấn- Tomek. Tuấn –Tomek…
Và nó bật cười khanh khách. Tiếngï cười mà hắn chưa từng được nghe kể từ khi biết thằng bé.
Hít căng lồng ngực, hắn ngẩng mặt lên bầu trời cao vòi vọi, đưa mắt nhìn xung quanh rồi quì xuống đặt tay lên mặt đất, thì thầm:
-Vĩnh biệt mảnh đất mà ta đã sống những tháng năm tuổi trẻ! Vĩnh biệt một phần đời đẹp đẽ, hạnh phúc nhưng cũng đầy đắng cay! Vĩnh biệt những người đàn bà đã đi qua cuộc đời ta! Vĩnh biệt tất cả!
Đám hành khách lục tục bước lên cầu thang máy bay. Hắn hạ thằng nhỏ xuống đất và dắt tay nó bước lên nấc thang đầu tiên.
Chợt có tiếng huyên náo từ phía sau vọng tới, một tiếng quát:
-Dừng lại!
Hắn thờ ơ quay đầu nhìn. Năm sáu cảnh sát đang hấp tấp chạy tới. Cùng với họ một người đàn bà tay cầm xấp giấy dày cộp. Hắn đờ người sợ hãi khi nhận ra đó là giám đốc trại trẻ. Bà ta chạy đến bên Tomek, hổn hển nói với đám cảnh sát:
-Cháu nhỏ này là công dân của chúng ta, nó không thể bị trục xuất!
Rất nhanh, Tomek hiểu ngay sự tình, gào lên:
-Không, tôi là người Việt nam!
Bà giám đốc giằng tay nó:
-Tomek, cháu là người Ba Lan! Cháu ở lại đây!
Một viên cảnh sát tiến đến, đưa tay bế bổng thằng nhỏ.
Thằng bé giãydụa, la hét như cố thoát khỏi vòng tay của bà giám đốc và người cảnh sát.
-Thả tôi ra, tôi là người Việt nam!...Bố, cứu con với!
Hàng trăm hành khách của chuyến bay ngây người đứng nhìn. Họ không hiểu điều gì đang xảy ra. Sau một thoáng đờ đẫn, hắn sực tỉnh, lao vào viên cảnh sát đang cố bế Tomek:
-Buông ra. Nó là con tôi! Các người không được cướp con của tôi!
Như được tiếp thêm sức mạnh, Tomek vùng ra khỏi đôi tay viên cảnh sát, chạy đến bên cha. Hai cha con ôm chặt lấy nhau.
Lập tức, ba cảnh sát khỏe mạnh xông đến ghì tay hắn lại. Giằng thằng béû ra. Tomek vừa quẫy, vừa gào:
-Tôi là người Việt Nam! Tôi muốn về nhà!
Như điên dại, hai cha con hắn vẫy vùng, quẫy đạp, cắn xé những bàn tay cứng như sắt đang ghì níu, tách họ xa nhau ra. Hắn gồng người, nhoài bàn tay ra phía thằng bé.
-Tomek, con!
Giọng hắn lạc đi.
-Bố…Đừng bỏ con!
Thằng bé cũng cố nhoài người nắm lấy bàn tay cha, nức nở.
Nhưng hai bàn tay, một lớn, một bé từ từ buông rời nhau ra và bị kéo xa về hai phía. Ba viên cảnh sát lôi hắn xềnh xệch lên cầu thang máy bay. Hắn vật lộn, tru lên như một con vật bị chọc tiết:
-Con tôi! Trả con cho tôi!
Ở dưới đất, Tomek cũng bị giữ chặt. Người ta đang cố lôi nó ra xe trở lại thành phố.
-Bố ơi!
Thằng bé khóc lặng đi không còn hơi trong cơn tuyệt vọng cùng cực. Mái tóc bết lại vì mồ hôi và gương mặt đỏ rực cố ngoái đầu nhìn về cầu thang máy bay nơi bố nó rũ người như tàu la đangù bị lôi đi xềnh xệch.
Bất chợt không hiểu sức mạnh nào khiến hắn vùng thoát khỏi sáu cánh tay đang gìm giữ thân thể mình, chạy xúông mấy bậc cầu thang máy bay và gào lên:
-Con… đừng khóc! Bố... sẽ… quay… lại… tìm… con…!
Lại sáu cánh tay túm lấy hắn ấn ngược vào phía trong thân máy bay. Cánh cửa máy bay đóng sập lại.
-Bố ơi…!
Thằng bé giãy dụa, thét lên lần cuối rồi lịm đi.
° ° °
Hắn thẫn thờ đứng trước con kênh nhỏ chảy lờ đờ, đen kịt bốc lên cái mùi khăn khẳn quen thuộc mà người ta vẫn quen miệng gọi là con sông Thối. Ngày trước, khi còn là thằng nhóc thò lò mũi xanh, hằng ngày hắn vẫn theo đám bạn ngâm mình xuống dòng nước mang màu chè đỗ đen này, cắm mặt xuống đám bùn tìm những búi giun vớt về nuôi cá chọi. Trong bước đường lưu lạc của mình, hắn đã đắm mình vẫy vùng như con rái cá trên sóng nước Vonga, bỡn cợt với những con sóng bạc đầu biển Baltich, nhưng thi thoảng, vẫn nhớ về dòng sông tuổi thơ nông choèn, đen kịt và nặng mùi thum thủm. Gần ba mươi năm đã trôi qua, dòng sông vẫn thế. Vẫn lờ đờ, thiếu sinh khí, rác rưởi ngập ngụa. Khác chăng, bây giờ người ta đã kè đá hai bên bờ sông, và trồng thêm hàng cây còi cọc mãi chẳng lớn được vì lúc nào cũng ướt sũng nước tiểu của khách bộ hành.
Đã nửa năm nay, suốt ngày, hắn cứ ngẩn ngơ, tha thẩn bên bờ sông Thối như một kẻ vô gia cư. Lúc đầu, những người bán hàng gần đó nhìn hắn bằng cặp mắt đầy cảnh giác. Nhưng dần dần, nhìn vẻ mặt hiền lành, dài dại của hắn, họ lại thấy thương, vì cứ ngỡ rằng đây là một kẻ mắc bệnh tâm thần vì học nhiều quá đâm ngộ chữ. Dần dà, hắn còn mua chịu được cả vài chén nước chè và dăm ba điếu thuốc vặt. Thậm chí, thi thoảng, hắn còn kể cho họ nghe về những tháng năm đã sống ở nước ngoài và còn giở cả ảnh của một thằng bé ra khoe là con của hắn. Người ta nghe cho đỡ buồn lúc vắng khách vậy thôi… Có kẻ chép miệng nói vui, thằng này dở người, mắc chứng tâm thần phân liệt hoang tưởng gì đó, chứ nước ngoài, nước trong gì cái ngữ này? Rõ khổ!...
Người đau nát cõi lòng là mẹ hắn. Khi hắn trở về với mái tóc dài cờm cợp, khuôn mặt hốc hác đầy râu ria, bộ dạng xiêu vẹo và cái túi nilon đựng một bộ quần áo hôi rình, như thể hắn vừa từ hang động vùng Tây Tạng trở về chứ không phải thằng con trai khôi ngô đi du học trời tây mà bà hằng hãnh diện… Cớ sao ra nỗng nỗi này? Thôi thì cuối cùng đứa con trai duy nhất của dòng họ Trần đã trở về. Bõ công bao năm bà ăn chay, thành tâm cầu xin Phật bà Quan Âm phù hộ... Dù sao nó cũng đã trở về.
Nhưng niềm vui của bà như chớp mắt. Từ ngày về nước thằng con bà thẫn thơ, thờ thẫn như kẻ tâm thần. Ngồi nói chuyện với bà, nhưng tâm trí cứ để tận đẩu đâu. Mắt nhìn về nơi xa lắc nào đó, dài dại, khổ sở… Có lúc nó đi biệt từ sáng đến tối. Hỏi thì ậm ờ, lúng búng nghe mãi chả hiểu nó nói gì? Nhiều đêm lại ngồi lặng hàng giờ trước bức ảnh một thằng bé mà nó bảo là con… Hỏi con thế nào thì nó bảo sau này mẹ khắc biết. Khổ quá, biết gì đây? Cứ thế này nó rạc rài, mòn mỏi và sẽ kiệt sức mất thôi. Mà nó làm sao thì bà sống sao nổi. Nhìn con héo hắt, lòng bà xót như xát muối. Những đêm phòng con sáng ánh đèn, nghe tiếng trở mình vật vã, bà
cũng thức cùng nó... Phải hỏi cho ra nhẽ.
° ° °
Hôm nay, bà đi chợ từ sớm, mua hương hoa, lễ vật khấn tổ tiên và ra bờ sông Thối tìm con...
Nghe lời mẹ, hắn cúi đầu đảnh lễ trước ban thờ. Chờ tuần hương tàn, bà pha ấm nước trà và chỉ chỗ chô hắn:
-Anh ngồi xuống đây để mẹ nói chuyện.
Hắn hồi hộp nhìn vẻ mặt nghiêm trang của mẹ. Hắn bỗng thấy sờ sợ… Bà ít khi như thế này. Từ nhỏ đến giờ hắn mới nhìn thấy hai lần mẹ có gương mặt như vậy. Lần này là thứ ba…
Bà rót nước ra chén:
-Anh uống đi.
Hắn nhấp ngụm trà nóng bỏng lưỡi, ngan ngát vị sen ướp.
Bà mẹ ngước nhìn hắn vẻ nghiêm khắc:
-Anh còn đợi gì nữa mà không đi đón thằng bé về đây?
Hắn ớ người nhìn bà. Bà mẹ vẫn nhìn hắn bằng cái nhìn nghiêm nghị.
-Mẹ hiểu cả rồi. Anh đang tìm cách quay lại đón thằng bé phải không?
-Vâng, nhưng… - Hắn ấp úng - Phải có tiền thì mới sang đó đón cháu được, mẹ ạ! Mà số tiền ấy so với gia cảnh nhà mình quá lớn. Những bảy chục triệu…
Giọng hắn nghèn nghẹt và suýt bật khóc như trẻ con nhưng cố kìm lại được.
-Mẹ biết…
Bà thừ người… Bảy chục triệu! Góa chồng từ khi ba đứa con còn đỏ hon hỏn, giật gấu vá vai chạy ăn từng bữa để nuôi chúng. Cho tới tận bây giờ, kể cả trong mơ, chưa bao giờ bà nhìn thấy từng ấy tiền.
-Mẹ biết… đúng là cả cuộc đời, chưa bao giờ mẹ có số tiền ấy. Nhưng mẹ sẽ có cách!
Hắn ngỡ ngàng nhìn bà.
-Mẹ…
Bà từ từ đứng dậy, tiến tới chân ban thờ, khom người lôi ra chiếc hộp gỗ.
Cái hộp ấy, hắn quá biết. Nó là nơi cất giữ những kỉ vật của gia đình.Hắn đã mở ra hàng trăm lần, nhưng ngoài tờ giấy kết hôn của cha mẹ, giấy khai sinh của anh em hắn, những tấm huân chương và tờ giấy báo tử cha, thì vật duy nhất có giá trị chỉ là đôi nhẫn cưới mà mẹ chắt chiu giành dụm đợi khi hắn lấy vợ. Mà đôi nhẫn ấy có bán đi, quá lắm được hơn triệu bạc.
Bàn tay nhăn nheo run run mở nắp rồi thò vào khua khoắng… Lát sau trên tay bà là mấy tờ giấy đã ố vàng.
-Tiền đây, anh cầm lấy!
Hắn nhìn trừng trừng vào đôi tay khẳng khiu, run run của mẹ… Ở trên đó là cuốn sổ đỏ chứng nhận quyền sử dụng mảnh đất của tổ tiên, dòng họ Trần…
° ° °
Ba tháng sau…
Vào một đêm mùa hạ mưa như thác đổ, có một toán người vượt biên giới từ Ukraina vào Ba Lan. Lẫn trong đám người đó – có hắn!