XtGem Forum catalog
Truyện Ngắn - Máu Của Tuyết

Truyện Ngắn - Máu Của Tuyết

Tác giả: Sưu Tầm

Truyện Ngắn - Máu Của Tuyết

Máu Của Tuyết


…Khi ánh hoàng hôn cuối cùng chìm hẳn sau dãy núi đá sừng sững phía tây, cũng là lúc bóng tối lem nhem chiếm lĩnh toàn bộ khu nghĩa địa rộng mênh mông, hun hút. Những con quạ đậu trên các thân cây trơ trụi phủ đầy tuyết trắng xóa trông như những hạt đậu đen chi chít trên đĩa xôi. Tiếng “quà, quà” đồng thanh thê lương của chúng càng ép chặt không khí tĩnh lặng rờn rợn đến ngạt thở. Những bầy gió điên cuồng độc diễn vũ điệu tuỳ hứng khi cơn mưa tuyết dầm dề sướt mướt cứ lặng lẽ rơi. Rồi thì đám gió nổi điên. Gió bê tuyết ném tung lên trời. Gió dằn tuyết xuống đất. Gió tãi tuyết chàng hảng, tành banh, tô hô. Gió xoay vặn rồi vun tuyết lại thành từng đống. Chán, nó lại chao đảo, quay cuồng luồn lách qua các khu mộ im lìm rên xiết lên thành những tiếng u ú, hù hù, khào khào như tiếng kêu hoan lạc man rợ…
Chui ra từ chiếc ô tô lấm lem bùn lầy như một con trâu vừa tắm bùn, hắn co ro, rúm ró trong cái lạnh ẩm ướt của bão tuyết đang tốc thẳng vào mặt. Liêu xiêu, vẹo vọ trượt bám đi trên lớp băng đang bị cái nhoen nhoét của những bông tuyết tan ra dưới đế giầy tạo thành một thứ chất lỏng trơn như mỡ. Sau hai cú trượt dài như một diễn viên trượt băng nghệ thuật loại bét bị ngã giập mông, hắn cũng mò tới được căn phòng bằng đá xám xịt của người trông coi nghĩa địa. Sự xuất hiện bất ngờ của hắn cùng bộ dạng tiều tụy trong quầng ánh sáng vàng vọt chẳng hề làm cho ông già còm nhom hoảng sợ. Ông ta điềm tĩnh nhìn hắn như nhìn một con ma đói vẫn thỉnh thoảng hiện về tranh thủ bầu bạn cùng mình chốc lát bên chai bimber(1) rồi lại vụt biến ngay trước khi ánh mặt trời đầu tiên nhô lên.
-Sao, mới chui từ ngôi mộ nào ra thế?
Ông hỏi bằng thứ giọng thản nhiên của một người quen sống với âm hồn.
Hắn khó nhọc mở cái mồm đang bị đông cứng vì giá rét:
-Tôi tìm mộ một người Việt… Lúc còn sống anh ấy tên là…
Ông già xua tay, giọng không mấy lạc quan:
-Tên tuổi đếch gì. Làm sao mà tôi nhớ được những cái tên trúc trắc của các anh? Vả lại cả khu nghĩa địa này chưa nhiều người Việt đến ở lắm đâu, mới chỉ có hai thôi. Anh ta chết khi nào?
-Hơn bốn năm rồi!
-Thế thì ở kia, tít ngoài cùng khu tường rào phía đông ấy! –Người coi nghĩa địa chỉ tay ra khoảng tối đang vần vũ đầy bão tuyết. – Cứ thấy ngôi mộ nào toen hoen, không xây, không ốp đá chính là nó đấy.
-Vâng! Cám ơn ông! – Hắn ừ hữ đáp vì chả biết nói gì hơn.
-Từng ấy năm chẳng ma nào đến thăm viếng. Tôi cứ ngỡ nó vô chủ. Nhưng sao lại đến muộn thế này? – Ông già nhìn hắn đầy vẻ thắc mắc.
-Tôi từ Vác sa va xuống, bị hỏng xe dọc đường, mãi mới tìm được chỗ chữa. Hôm nay là ngày Lễ người chết(2) , chẳng ma nào chịu làm việc.- Hắn trả lời, giọng buồn rầu và nhoi nhói nơi ngực.
-Ra thế! Còn ở đây thì dân tình nườm nượp kéo đến tảo mộ từ sớm tinh mơ, mãi tới sẩm tối mới vãn. Gớm, người đâu mà lắm thế không biết? –Ông ca cẩm, vớ chai rượu tu một ngụm, rồi đưa cho hắn – Làm một tợp đi cho ấm, người anh run bắn lên như thằng choai con lần đầu nhìn thấy đàn bà cởi truồng rồi kia kìa!
Ông già nháy mắt, cười hóm hỉnh.
Hắn chẳng khách khí, vớ chai bimber làm một tợp lớn. Cái thứ rượu tự nấu mạnh và xóc như đấm vào cổ họng nhưng lập tức làm cho các mạch máu đang chực đông cứng giãn ra. Hắn thấy người ấm lại.
-Cảm ơn ông! Tôi đi đây! – Khoan khoái trả lại chai rượu cho ông già vui tính, hắn quay người, rảo bước ra ngoài. Sau ngụm rượu mạnh, cái lạnh đã tan chảy. Hắn mạnh bạo bước những bước dài, bất chấp nền băng lầy nhầy, trơn trượt.
-Này, anh người Việt, đợi một chút!
Hắn quay người lại, ông già coi nghĩa địa đang lóc cóc đuổi theo. -Đợi một chút, tôi sẽ chỉ chỗ cho. Chứ anh lọ mọ tìm cả đêm chưa chắc đã thấy.
Hắn cảm ơn ông già tốt bụng. Họ lầm lũi đi qua những ngôi mộ chất đầy hoa và những bát nến con đã tắt ngóm phủ đầy tuyết. Tới sát bờ tường, ông già chỉ cho hắn một ngôi mộ nhỏ xây trát qua quít nằm khép nép bên cạnh những khu mộ lớn ốp đá đen bóng lộn với dấu thập ngoặc hình thánh giá ngạo nghễ vươn cao.
Dưới ánh sáng của ngọn đèn pin, hắn cúi xuống, hồi hộp gạt lớp tuyết trên tấm bia xiêu vẹo đắp tạm bằng xi măng. Mấy dòng chữ nguệch ngoạc trên đó thầm mách cho hắn biết, người nằm dưới đất chính là thằng bạn nối khố.
Hắn lặng người. Mày đấy ư Minh? Có phải mày đấy không, thằng bạn kiêu hùng một thuở đã đồng cam cộng khổ chia sẻ với tao từng mẩu bánh mì vụn, từng giọt rượu đắng ngắt? Thằng bạn đã thức trắng cùng tao suốt bao đêm dài với những âu lo toan tính cho giấc mơ về một ngày mai. Mà chúng mình có ước muốn gì nhiều lắm đâu, Minh nhỉ?... Một chút tiền còm để sửa sang lại ngôi nhà lụp xụp. Một chút tiền còm để trang trải nợ nần cho những đứa em ăn học. Một chút tiền còm để tồn tại khi về nước, để nhét vào phong bì đặt trước mặt những gã ngồi tựa ghế bọc da ngửa cổ nhìn trần nhà uể oải lắng nghe lời ấp úng phân trần của những kẻ đi xin việc như chúng mình hòng mong kiếm được một chỗ đứng chật chội để hưởng chút nắng ấm dưới ánh mặt trời...Có nhiều quá không hả Minh, những điều chúng mình hằng mơ ước? Để rồi mày phải trả giá bằng mạng sống của mình khi hứng trọn cho tao nhát dao của tụi cướp trong một lần làm cửu vạn ôm hàng thuê. Mày ngã xuống một cách oan nghiệt, tức tưởi. Máu phun thành dòng mà cặp mắt vẫn mở trừng trừng. Có phải mày vẫn tiếc cuộc đời dài phía trước dù còn bao nhọc nhằn và áy náy về gánh nặng dồn trút lên vai khiến đôi mắt mày không thể khép lại, dù tao đã vuốt mấy lần trước lúc ngất đi? Vậy là tao và mày không trở thành thông gia được nữa. Những đứa con của mày chết ngay từ khi chưa được sinh ra trên cõi đời này. Chả biết chúng nó bất hạnh, hay hạnh phúc vì khỏi làm kiếp bị đọa đầy như tao và mày đây? Đã bao tháng ngày mùa đông, mày co ro nằm đây giữa đất lạnh quê người, nghe bão tuyết gào thét? Tao không có đủ tiền để đưa mày về nằm giữa đồng đất quê hương quanh năm chan hoà ánh nắng. Đành vậy nhé, Minh ơi!
Mở ba lô lấy ra một thẻ hương, vài bát nến và mấy bông hoa mua vội ở dọc đường đã héo quắt, hắn khó nhọc đánh vật với chiếc bật lửa cạn xăng. Sau dăm lần “lạch xạch, lạch xạch”, ngọn lửavàng vọt, leo lét cháy lụi vào tận bấc cũng đã bùng lên như một nỗ lực tuyệt vọng cuối cùng. Những ngọn nến nhỏ nhoi, trắng muốt run rẩy được chừng vài giây rồi tắt lịm ngay bởi những bông tuyết tròn căng phủ lên, lớp nọ chồng lên lớp kia. Bó hương có khá hơn, từ những đốm sáng đỏ lừ tỏa ra vầng khói nhẹ. Phút chốc mùi hương trầm ngan ngát bao trùm một góc nghĩa địa.
Hắn ngồi lặng đi bên mộ bạn. Minh ơi! Đã hơn bốn năm nay, không một nén hương, một quả trứng. Mày nằm đây như một con ma lạ nghèo hèn, lạc lõng, tủi hổ bên những con ma bản xứ no đủ tình thương, dư thừa vật chất. Mày có bị chúng nó bắt nạt, hành hạ không? Chắc là không đâu, Minh nhỉ? Bởi những kẻ cùng đinh chẳng có gì để mất như lũ chúng ta lúc sống đã luôn ngẩng cao đầu, mặc mẹ cái túi rách kinh niên và cái dạ dày luôn réo gào vì đói, thì lúc xuống âm phủ, chắc mày vẫn sẽ là một con ma kiêu hùng luôn mỉm cười ngạo nghễ và sẵn sàng chấp nhận mọi cuộc chơi mạo hiểm với tư thế của một hiệp sĩ. Có phải vậy không Minh? Mày sống khôn, chết thiêng thì hãy phù hộ cho tao

nhé! Hãy phù hộ cho tao về một ngày mai, bởi tao không biết, NGÀY MAI, NGÀY MAI, cái gì sẽ đến? Bốn năm dưới này mày làm ma đói. Còn tao, bốn năm khổ ải lê la qua hai trại tù để làm cuộc đời của ma sống mà chả mấy bữa được no. Mỗi lần chuyển trại là một lần lại phải gồng mình lên chiến đấu để tồn tại giữa cái đám giang hồ đâm thuê chém mướn bản địa; chiến đấu để giữ được tư thế của một con người trong đám nửa người nửa thú; chiến đấu để bảo toàn trinh tiết cho cái lỗ đít của mình giữa những con đực luôn trong tư thế phát cuồng hằng đêm vẫn đè nhau ra phóng tinh vào cái nơi vốn được Chúa tạo ra không để làm việc ấy... Hỡi thằng bạn võ sĩ có đôi tay vượn, đôi chân mèo của tao! Không uổng đâu những bát mồ hôi đổ ra khi xưa trên sàn tập, những cú đá nặng hơn ba trăm cân tựa sấm sét mà chúng ta đã phóng hạ địch thủ đổ gục như chém chuối trong những trận kịch chiến trên võ đài. Không uổng đâu! Bởi có thể nói, tao là một trong số rất ít thằng tù đem được sự trinh tiết trở về với thần Tự do! Không uổng đâu! Bởi đấy là niềm tự hào của bọn tù ở cái xứ sở da trắng này. Nếu sao vạch trên ve áo khẳng định đẳng cấp của thằng lính, cặp chân bộ ngực khẳng định đẳng cấp của con đàn bà, thì “sự trinh tiết” của thằng tù khẳng định đẳng cấp của nó, khiến nó được kính nể, trọng vọng, được ngồi chiếu trên… Nếu mày thừa đủ bản lĩnh để khuất phục những kẻ khác, nghĩa là mày được quyền chỉ tay vào bất kì một con đực nào vừa mắt và ra một cái lệnh ngắn gọn: “Chổng đít lên!” Điều ấy cũng đồng nghĩa với việc mày được quyền nằm ườn khoan khoái tận hưởng chút nắng hiếm hoi qua cửa tò vò, được hưởng mọi sự cống nộp từ những món quà tắc tế của thân nhân mang lên cho những thằng tù khác. Nhiều, nhiều lắm… Bảo toàn sự trinh trắng cho cái lỗ đít của mình, đối với cái án bốn năm tù khốn khổ khốn nạn mà tao phải trả giá vì tội vận chuyển hàng lậu và gây thương tích cho người khác. Ấy là tất cả cuộc sống của tao những tháng ngày qua! Ấy là miền kí ức mịt mù tối câm vẫn đang phủ bóng lên cuộc đời hiện tại của tao!...
Những giọt nước mắt tủi hận nối đuôi nhau lăn dài trên má hắn. Tuyết vẫn rơi mỗi lúc một thêm dày. Gió vẫn rú lên bản tình ca hoan lạc và man rợ. Nắm hương kiên cường đã cháy rụi, chỉ còn trơ lại những cọng chân khẳng khiu. Bật chai rượu, rưới lên tấm bia xi măng có những dòng chữ nguệch ngoạc ghi tên thằng bạn. Còn sót một ít, hắn ngửa cổ tu một hơi cạn sạch và ngay ngắn đặt cạnh đám cọng chân hương, khom người vái bạn ba cái. Minh ơi, tạm biệt! Hẹn mày ngày này năm sau nếu tao còn bảo toàn được mạng sống và cơ hội…
-Về thôi anh bạn, không định ngồi đây cả đêm đấy chứ?
Tiếng nói của ông già coi nghĩa địa kéo hắn ra khỏi dòng hồi ức. Qua cái nhìn nhòe nhoẹt nước mắt, hắn thấy ông đang đứng cạnh một thiếu phụ cùng đứa trẻ.
Ông già hỏi hắn:
-Anh có thể cho mẹ con chị này quá giang một đoạn về thị trấn H. được không? Hơi ngược đường một chút. Nhưng muộn quá rồi. Giờ này chắc chẳng còn ô tô buýt nữa.
Hắn đưa tay lau mắt, gật đầu không một chút do dự:
-Dĩ nhiên là được. Mời chị và cháu ra xe.
Chợt thằng bé chỉ tay vào hắn, reo lên:
-Bố ơi!
Hắn tưởng mình nghe lầm, vì hình như thằng nhỏ gọi hai chữ "bố ơi!" bằng tiếng Việt.
Thiếu phụ luống cuống ghé tai thằng bé nói nhỏ một điều gì đó.
Thằng bé vẫn gào lên, lần này bằng tiếng Ba lan:
-Mẹ nói dối. Bố kia kìa!
Rồi nó nhào về phía hắn. Nhưng thiếu phụ giữ chặt tay con lại. Thằng bé bất lực gục đầu vào váy mẹ nó, khóc tấm tức.
Hắn ngớ người, chẳng hiểu sự thể ra sao.
Họ cùng đi ra phía cổng nghĩa trang. Thằng bé chật vật bám theo, bước chân loạng choạng. Hắn cúi xuống, bế bổng nó lên. Thằng bé mừng rỡ áp chặt đầu vào má hắn, nghẹn ngào thốt lên: "Bố ơi!". Nó khóc. Những giọt nước mắt ấm nóng một bên má hắn. Đến lúc này, dưới ánh sáng của ngọn đèn cao áp, hắn mới nhận ra, đó là một chú nhóc châu Á, trạc sáu, bảy tuổi. Hắn thấy lạ, vì những đứa trẻ được sinh ra trong các cuộc hợp hôn ít nhiều đều hoà quyện đường nét của hai chủng tộc. Đằng này, chú nhóc không mang một nét nào của bà mẹ da trắng tóc nâu đi bên cạnh. Vẫn cái mũi tẹt, đôi mắt xếch và mái tóc đen, nó giống hệt như những đứa trẻ thuần chủng mà hắn gặp nhan nhản ở Việt Nam. Thằng bé có vẻ mệt, nên mới chỉ được bế bổng trong vòng tay vài phút, nó đã gục đầu vào vai hắn gà gật.
-Làm một ngụm nữa chứ? Giờ này chẳng còn thằng cha cảnh sát nào đủ tỉnh táo để bắt phạt nữa đâu!
Ông già lại sốt sắng dúi cho hắn chai rượu, khi họ đã đến bên chiếc ô tô.
Hắn tợp một ngụm nhỏ cho phải phép, vì khi đã chui vào trong xe thì cái lạnh không còn đáng sợ nữa. Nhưng trước mặt là quãng đường dài dằng dặc hơn năm trăm km trơn trượt băng tuyết. Có tỉnh táo căng mắt ra cầm lái cũng là một thử thách đáng sợ, chứ đừng nói lại dính chút hơn men. Họ từ biệt ông già tốt bụng.
-Đi đi, Chúa phù hộ cho các vị!
Ông già vẫy tay từ biệt. Chiếc xe rón rén đề pa trên mặt đường loang loáng như mặt kính.
Ra đến đầu đường, người phụ nữ rụt rè đềnghị:
-Anh làm ơn rẽ trái nhé!
Hắn khẽ cười:
-Vâng, tôi biết rồi, rẽ phải là đường về Vác sa va. Trước đây tôi đã ở thị trấn H. một thời gian.
-Anh bán hàng ở đó à? Lâu chưa?
-Vâng, nhưng cũng đã hơn chục năm rồi.
-Hơn chục năm?... Ngày ấy tôi mới đang là một con nhóc nữ sinh trung học, còn mơ mộng hão huyền lắm. Thế mà bây giờ... - Giọng người phụ nữ xa ngái.
Thấy cô ta có vẻ buồn, hắn chuyển đề tài:
-Từ H. đến nghĩa trang này chưa đầy hai chục km, sao cô không đi ban ngày cho đỡ vất vả?
-Tôi phải về quê thăm bố mẹ, tiện thể cùng các cụ tảo mộ ông bà nội ngoại. Hai mẹ con tôi mới từ quê ra thẳng nghĩa trang lúc sẩm tối.
Hắn buột miệng hỏi:
-Các cụ còn sống cả. Vậy cô ra nghĩa trang thăm viếng ai vậy?
Một thoáng im lặng. Giọng người phụ nữ trầm xuống:
-Chồng tôi!
Hắn thoáng ân hận vì câu hỏi không đúng lúc của mình:
-Xin lỗi vì tôi đã làm cô buồn!
-Không sao, đằng nào tôi cũng phải quen với chuyện đó thôi! - Thiếu phụ đáp, giọng nghèn nghẹn.
Hắn chợt nhớ, hình như ông già bảo vệ nói là ở nghĩa trang có hai ngôi mộ người Việt, song không dám hỏi gì thêm. Chiếc xe vẫn lầm lũi chui lủi trong cơn mưa tuyết mỗi lúc một dày đặc...Tự nhiên hắn chả muốn nói gì thêm. Thiếu phụ cũng câm lặng.
Xe dừng lại dưới chân một chung cư cũ rích được xây dựng từ những năm sáu mươi. Thiếu phụ nhìn hắn:
-Chắc từ sáng đến giờ anh chưa ăn gì? Mời anh lên nhà dùng bữa tối với mẹ con tôi!
Hắn nhận lời không một chút khách sáo, vì vừa đói, vừa mệt. Vả lại, bây giờ có đốt đuốc đi tìm cũng chẳng mò ra quán ăn nào trong cái ngày lễ tảo mộ này. Hắn bế thằng nhỏ vẫn đang thiu thiu ngủ, leo lên tầng năm.
-Anh ngồi tạm đây, tôi đặt cháu vào giường rồi sẽ ra ngay!
Thiếu phụ chỉ tay vào chiếc ghế ăn trong bếp, giơ tay đón đứa bé, cởi áo khoác và giày cho nó. Thằng nhóc vẫn gà gật.
-Chúa ơi, sao con tôi nóng thế này?
Thiếu phụ thốt lên, má áp vào trán thằng bé.
Hắn cũng đưa tay đặt khẽ lên trán thằng nhỏ. Đúng là nó đang sốt.
-Có lẽ cháu bị cảm lạnh. Cô có thuốc hạ sốt panadol không?
-Có! Anh bế giúp cháu vào trong phòng, để tôi đi lấy thuốc.
Nhận thằng nhỏ từ tay thiếu phụ, hắn bế vào phòng. Nó ngủ li bì. Ở đầu giường, ngay

cạnh cái gối có bức ảnh một người đàn ông châu Á trạc ngoài ba mươi. Hắn thầm đoán đó chính là người Việt nam thứ hai nằm ngoài nghĩa trang. Ngỡ ngàng nhìn bức ảnh giây lát vì cảm thấy có nhiều nét quen quen, có điều hắn chưa nhớ ra là đã gặp anh ta ở đâu, bao giờ?
Thiếu phụ đi vào, trên tay là lọ xiro giảm sốt.
Hắn bảo:
-Phải đợi lúc cháu tỉnh dậy mới uống thuốc được, bây giờ tôi sẽ thử chữa bệnh cho cháu...
Rồi nhìn quanh như tìm kiếm một thứ gì đó.
Thiếu phụ nhìn hắn dò hỏi:
-Có phải anh tìm cái này không?
Cô ta mở chiếc tủ nhỏ trên tường, lôi ra lọ dầu gió màu xanh và đồng xu bằng bạc.
Hắn ngạc nhiên:
-Đúng rồi! Sao cô biết?
Thiếu phụ buồn bã:
-Ngày còn sống, Việt vẫn cạo gió cho hai mẹ con tôi mỗi khi bị cảm lạnh. À quên, tôi chưa nói với anh, chồng tôi cũng là một người Việt... Anh ấy mất hơn hai năm rồi.
Hắn cúi đầu, khẽ nói:
-Ra thế, thảo nào...
Hắn lật áo thằng nhỏ lên, xoa dầu vào lưng và lấy đồng xu bạc chà lên. Những vệt hằn màu đỏ sẫm dưới làn da mỏng manh từ từ hiện mỗi lúc một rõ.
Hắn lẩm bẩm:
-Đúng nó bị cảm rồi.
Thiếu phụ ngồi ở cuối giường, lặng lẽ nhìn hắn cạo gió cho thằng bé, khẽ thở dài, ánh mắt xa xăm.
Khi cả lưng thằng bé đã đỏ bầm lên, hắn xoa thêm một lớp dầu và kéo áo xuống. Đoạn, lật người nó lên xoa dầu vào trán.
Đang ngủ li bì, chợt đôi mắt thằng bé khẽ động đậy rồi từ từ hé mở. Nó chăm chăm nhìn lọ dầu gió hắn đang cầm rồi nghển cổ, vồ lấy đôi bàn tay hắn.
-Bố ơi!
Đang lúng túng chưa biết phải trả lời ra sao, thằng nhỏ đã ngồi bật dậy, ôm ghì đầu hắn, kéo xuống, thì thầm:
-Bố chưa chết à?
Hắn càng lúng túng và im lặng, chưa biết phải lựa cách xưng hô với thằng nhỏ ra sao. Hắn đoán rằng nó đã nhầm hắn với người trong ảnh.
Thằng nhỏ vẫn bám chặt lấy hắn, cà mặt vào bộ râu lởm chởm.
-Đêm nay bố lại "ru à ơi" nhé!
Hắn chợt run lên khi nhận ra, cứ mỗi khi gọi "bố ơi" và ba từ "ru à ơi" thằng nhỏ lại nói bằng tiếng Việt. Đáng lẽ phải an ủi và tìm một lời nói thích hợp nào đó với thằng bé thì hắn vẫn chỉ im lặng, chỉ vụng về vỗ vỗ vào lưng nó.
Dường như cảm nhận được thái độ lảng tránh của người đàn ông mà nó đang ôm, thằng bé buông tay ra, chăm chăm nhìn hắn rồi lại hướng ánh mắt đau đáu vào tấm ảnh hồi lâu, vẻ mặt phân vân, ngơ ngác.
Hắn vẫn lặng nhìn thằng bé. Cái nhìn của nó đưa tụt hắn quay trở lại miền kí ức. Trước đây, hắn cũng đã nhiều lần nhìn tấm ảnh cha trên bàn thờ như vậy. Vụt nhói nỗi đau xé lòng, cảm giác hụt hẫng khi nhận giấy báo tử cha và chuỗi ngày khổ cực của bốn mẹ con suốt những tháng năm dài dằng dặc. Lúc ấy, hắn đang học lớp một, trạc tuổi thằng nhóc này. Dù mẹ ở vậy tảo tần thay chồng đùm bọc ba anh em hắn, nhưng kể từ ngày đó hắn đã biết thế nào là vắng cha quạnh nhà… Hắn chặc lưỡi, khẽ lắc đầu. Sự ái ngại pha chút thương hại thằng bé thoắt biến thành cảm giác xót xa cứ dâng lên, lớn dần lên trong hắn.
Vừa đáu đáu nhìn vào tấm ảnh, vừa rón rén, từ từ nâng khuôn mặt người đàn ông trong tấm kính lên ngang tầm mắt, thằng bé thầm thì:
-Bố ru à ơi...!
Gương mặt nó đầy vẻ thành kính, nhẫn nại như chờ đợi câu trả lời của người trong ảnh. Rồi đôi mắt ấy quay sang hắn. Lặng lẽ, da diết, vời vợi và chứa chan hi vọng.
Đến lúc này, hắn cảm thấy sẽ là tội lỗi nếu cứ tiếp tục im lặng và lảng tránh ánh mắt ấy.
-Ừ, bố sẽ ru! - Hắn bỗng nhiên thốt lên bằng cái giọng đã ầng ậc, rồi đưa bàn tay lên khẽ xoa đầu thằng bé. – À… á à ơi…
Hắn chỉ ngân lên được có vậy thì nghẹn lại. Câu hát ru khắc lõm trong tâm tưởng dù lâu lắm rồi chưa được nghe ai hát lại… Nhưng sao hắn lại không thể cất lời đúng lúc này? Thằng bé thần người ra chờ đợi. Cặp môi run run. Rồi bật khóc. Tiếng khóc tức tưởi bị ém tận trong cổ họng. Nó xoè bàn tay nóng hầm hập ôm đầu hắn, sờ khắp bên má, vuốt xuống cằm và lùa vào mớ tóc dày cợp, rối bung. Người nó run quằn lên trong tiếng khóc bị kìm nén. Những giọt nước mắt nóng hổi tưới đẫm máhắn.
-Đừng khóc! -Hắn khẽ vỗ về và chỉ biết nói đúng vậy.
Thằng bé vẫn thổn thức, người giật lên theo từng tiếng nấc cụt.
-Không… có bố… các… bạn… ở… lớp… cứ… bắt… nạt…
Hắn nắm tay thằng bé, bóp nhẹ và đưa lên môi lướt nhẹ:
-Ngày mai bố sẽ đi cùng con đến trường.
Thằng bé rúc sâu hơn vào cổ hắn, tiếp tục thổn thức:
-Chú…Daniel…buổi…tối…cứ…đánh…bắt…con…phải…đi…ngủ…sớm…Chú… vào phòng…với mẹ…Mẹ…không yêu…con…!
Một thoáng im lặng ngột ngạt. Hắn và thiếu phụ nhìn nhau bối rối.
Thiếu phụ gượng gạo lên tiếng:
-Anh ngồi đây với cháu, để tôi vào bếp bắc nồi xúp.
Rồi cô ta vội vã đi ra. Thằng bé vẫn nước mắt lưng tròng, cuộn tròn trong lòng hắn như một cục bông mềm mại, ấm áp. Hắn vụng về xiết chặt lấy nó. Bỗng thằng bé vùng vằng, gạt tay hắn ra, ngước mắt nhìn trách móc.
-Không phải thế. Bố quên mất rồi!
Rồi nó tự động nằm vắt ngang qua đùi, đầu gối lên cánh tay phải, cầm cánh tay trái của hắn đặt lên trán nó:
-Bố "ru à ơi" đi!
Bàn tay trái của hắn ngoan ngoãn theo sự chỉ dẫn của thằng bé. Hắn xoa lên mái tóc mềm như tơ của nó và bỗng nhớ câu thơ của một người bạn ngâm nga lúc cả bọn -say ngất ngư trong cái đêm mừng hắn vừa ra tù. Hắn khẽ khẽ hát:
-À ơi! Con cò con vạc con nông…Còn bao con nữa sao không thấy về..."(3)
Đôi mắt đỏ ngầu vì sốt đang nhắm nghiền chợt mở to, nhìn hắn. Vẻ phân vân, nghi ngờ. Cái đầu nhỏ ngóc lên rồi lại quật xuống ngay, từ từ thiếp đi… Hắn vẫn ngâm nga mấy câu thơ mà kí ức còn lưu giữ được.
Thoảng từ bếp vào mùi xúp khoai tây nấu với thịt bò pha lẫn mùi lá nguyệt quế khô thơm hăng hắc. Thiếu phụ ló đầu vào, thầm thì:
-Xong rồi, chúng ta ăn thôi!
Hắn khẽ khàng đặt thằng bé xuống giường rồi đi ra bếp.
Trên bàn ăn, hai đĩa xúp bốc khói nghi ngút, bên cạnh là một chai vang đỏ.
-Chúc sức khoẻ! Tên tôi là Marta!
-Chúc sức khoẻ! Còn tôi là Vinh!
Họ cụng li và uống cạn. Hắn khẽ nhăn mặt vì vị chua loét của thứ vang rẻ tiền và cắm đầu, nghiến ngấu ăn. Marta nhìn vẻ háu đói của hắn, cười mơ hồ. Sau tuần rượu vang thứ ba, Marta nhìn hắn:
-Anh không định hỏi gì tôi sao?
Hắn mỉm cười, lắc đầu:
-Không, vì tôi biết cô sẽ tự kể.
Vừa nói, hắn vừa nheo mắt nhìn Marta. Tuy chẳng phải là tay sành sỏi tâm lí phụ nữ, nhưng hắn biết, trong căn phòng nhỏ lặng lẽ, bên chai rượu đã cạn gần nửa, ngoài trời tuyết lại đang phủ phê dăng mắc cái lạnh tê tái, người ta bỗng cần được chia sẻ… Mấy thằng đực rựa cứng vía như hắn cũng thấy mềm lòng chứ nói gì một thiếu phụ trẻ góa chồng đang chứa chất mọi nỗi niềm…
Marta lại với li vang, làm một hơi. Mắt long lanh vì men rượu trên khuôn mặt ửng hồng, cô châm điếu thuốc rồi khẽ khàng:
-Chắc anh cũng đoán ra, bé Tomek không phải là con đẻ của tôi. Tôi làm vợ Việt khi mới 18 tuổi. Tôi không ân hận vì đã lấy anh ấy, dù khi đó tôi bị cha mẹ và tất cả anh chị em từ mặt, vì họ không ủng hộ cuộc hôn nhân dị chủng này. Sau ba năm sống với nhau vẫn không có con, chúng tôi đi khám. Bác sĩ nói Việt vô sinh. Anh ấy rất buồn và bị trầm cảm một thời gian dài. Việt muốn giải phóng cho tôi, nhưng tôi không chịu vì yêu anh ấy. Sau nhiều lần bàn bạc, chúng tôi quyết định về Việt Nam xin con nuôi. Trong số trẻ xanh xao vàng vọt ở trại tế bần, chúng tôi chọn một bé trai, chính là Tuấn. Bé Tuấn bị mẹ bỏ rơi ngay tại bệnh viện

và được đưa vào trại. Lúc đó cháu mới được hai tuổi. Sau gần nửa năm trời lo chạy các thủ tục nhiêu khê, phiền hà, chúng tôi cũng đón cháu sang được bên này. Vì tên Việt Nam là Tuấn, nên khi làm thủ tục nhập quốc tịch Ba Lan cho cháu, chúng tôi đổi thành Tomek. Từ ngày có Tomek, Việt rất vui và hạnh phúc. Anh chăm bẵm, nâng niu Tomek như con đẻ. Thằng bé yêu bố lắm. Nhưng vì lo việc làm ăn, nên hàng ngày chúng tôi phải gửi cháu ở nhà bà bảo mẫu từ sáng sớm đến tối mịt. Về đến nhà là Việt giành hết phần chăm sóc con. Anh chỉ buồn là thằng bé suốt ngày ở với người Ba Lan nên bao nhiêu công sức bỏ ra để dạy nó nói tiếng Việt nhưng vẫn không thành. Cho đến năm bốn tuổi, Tomek chỉ biết gọi "bố ơi" và bập bẹ câu "bố ru à ơi đi" bằng tiếng Việt mỗi khi nằm cuộn tròn trong lòng để được nghe bố hát ru hàng đêm. Bao giờ cũng bắt đầu bằng câu “à…ơi”…
Marta cố bắt chước giai địêu mà Việt đã hát ru Tomek nghe ngồ ngộ. Rồi cô ta nhấp thêm ngụm rượu, mắt khép lại như đang tự lắng nghe tiếng ngân còn đang vọng trong lòng mình...
-... Cuộc sống của chúng tôi chả sung túc gì nhưng vẫn thấy đầy đủ, trọn vẹn… Chúng tôi có nhau, đủ cả ba người thành một gia đình, có bạn bè, cả những người Việt ở quanh đây… Có hội hè, tụ tập để Việt nguôi ngoai nỗi nhớ quê hương. Tomek có bạn bè giống như nó để nô đùa… Cuộc sống của chúng tôi cứ êm đềm trôi đi mà chả mong ước gì hơn thế… Cho đến một đêm, Việt từ biệt hai mẹ con tôi lên Vác sa va lấy hàng về bán…
Marta nghẹn lời, nước mắt tràn xuống má. Cô cố giữ không bật thành tiếng. Hắn rót cho cô thêm một ly vang nữa. Marta ngửa cổ uống cạn. Rồi lại ngồi im phắc. Hắn đợi một lát rồi rụt rè hỏi:
-Có chuyện gì xảy ra vậy?
Marta lấy tờ giấy ăn trên bàn thấm đôi mắt ướt nhượt:
-Chính tôi cũng không biết. Sáng hôm sau, xe cảnh sát chở tôi tới một cánh rừng gần đường quốc lộ nhận xác chồng. Việt bị giết ngang đường, bao nhiêu tiền nong bị cướp sạch.
Hắn ngậm ngùi:
-Tôi cũng có được nghe qua về vụ này hồi… (Suýt nữa thì hắn bật ra ba chữ “hồi ở tù”)… -Không ngờ, người đó lại là chồng cô... Thế cảnh sát có tìm ra thủ phạm không?
Marta buồn bã lắc đầu, khẽ chua chát:
-Chưa, hơn hai năm trôi qua rồi. Có lẽ họ cũng chẳng thèm tìm nữa. Anh biết đấy, thân phận của người dân nhập cư ở đất này như chiếc lá rụng vào cuối thu ấy mà.
Hắn nhói lòng nhưng miệng lại chợt mỉm cười. Marta nhìn nụ cười của hắn và khẽ cúi thấp đầu xống.
-Những ngày đầu khi Việt mất, Tomek chẳng chịu ăn, cứ khóc ngằn ngặt gọi "bố ơi!" và hỏi bố bao giờ bố về? Tôi biết nói sao với thằng bé hả anh?... Con khóc, mẹ cũng khóc theo… Khổ nhất là ban đêm, nó cứ bắt tôi "ru à ơi". Mà tôi đâu có biết ru bài hát Việt nào? Nó khóc lả đi tới khi kiệt sức. Trong giấc ngủ, thỉnh thoảng lại thổn thức gọi "bố ơi!"… Kể từ đó, thằng béthường ngồi lặng hàng giờ bên khung cửa sổ, nhìn xuống đường, nơi ngày xưa Việt hay đỗ xe mỗi lần đi xa về. Nó lặng lẽ như một cái bóng. Ngay cả khi tôi hỏi và dỗ dành nó chỉ gật hay lắc đầu. Đến nỗi, những ngày đầu tới trường, các cô giáo tưởng nó câm. Giờ tan học, trong khi các bạn nô đùa ngoài sân, Tomek vẫn một mình thừ thẫn bên gốc sồi già, nhìn theo những đứa trẻ được bố đến đón… Đêm đến, nó ôm ảnh Việt vào lòng, thầm thì gọi: "Bố ơi! Bố ru à ơi đi!" cho tới khi thiếp đi. Mãi đến hôm nay, nó mới lại nói nhiều như vậy, vì ngỡ rằng…
-Tôi là Việt? - Hắn buột miệng và chợt thấy mắt mình cay cay.
-Vâng! – Marta khẽ gật đầu - Bởi anh và Việt có nhiều nét giống nhau tới mức chính tôi cũng ngạc nhiên từ cái nhìn đầu tiên.
Tới giờ, hắn đã hiểu vì sao lại cảm thấy khuôn mặt của người đàn ông ở tấm ảnh đầu giường Tomek trông rất quen.
-Thế bây giờ hai mẹ con sống ra sao?
Marta rít một hơi thuốc, lắc đầu buồn bã:
-Chật vật và mệt mỏi. Tôi không nhận được sự trợ giúp nào của gia đình mình, vì mọi người đã quay lưng lại ngay từ khi tôi lấy Việt.
-Thế còn những người bạn của Việt? Những người vẫn thường tụ tập với gia đình chị khi Việt còn sống? -Hình như hắn chợt cao giọng và gay gắt.
Marta cười mệt mỏi:
-Họ có giúp hai mẹ con tôi. Nhưng chỉ sau khi Việt mất được vài tháng, họ đã phải bỏ đi chỗ khác sinh sống. Vì đây là thị trấn sát biên giới Đức, các nhóm đưa người hay tập kết làm chỗ vượt biên nên cảnh sát và lính biên phòng truy lùng gắt gao lắm. Mà họ lại không có giấy tờ cư trú hợp lệ.
-Tôi hiểu! -Hắn cay đắng nghĩ đến cảnh nháo nhào, tán loạn như ong vỡ tổ của những người đồng bào chạy trốn các đợt bố ráp của cảnh sát hay đám lính biên phòng.
Marta nhìn hắn dò hỏi:
-Còn anh có giấy tờ đấy chứ?
-Có! -Hắn đáp, theo thói quen, khẽ đưa tay sờ vào túi, nơi có quyết định tha trước thời hạn của Viện kiểm sát tỉnh N. và lệnh cấm không được ra khỏi biên giới Ba Lan trong thời hạn sáu tháng để thử thách. Cái lệnh này chính là lá bùa cứu cánh của hắn trước các nhà chức trách, vì họ không thể trục xuất một kẻ bị cấm xuất cảnh.
-Anh có vợ chưa? –Marta nheo mắt.
-Chưa!
-Thế con cái? -Lại một cái nheo mắt kèm theo nụ cười trêu trọc.
-Điều này thì chính tôi cũng không biết!
Hắn đáp một cách hết sức thành thật rồi nhìn Marta. Cả hai cùng tủm tỉm cười. Nụ cười đầu tiên từ khi hắn có mặt trong căn hộ cũ kĩ này.
Chợt có tiếng kẹt cửa. Cả hai cùng quay lại. Tomek đứng thập thò ở cửa bếp nhìn họ.
-Kìa, con ngủ đi chứ! Đang ốm kia mà? –Marta nói với thằng bé.
Thằng bé vẫn im lặng, trân trân nhìn hai người.
-Con đói à? Mẹ múc xúp cho con nhé?
Vẫn im lặng, chỉ cái đầu khẽ gật gật. Thằng bé tiến vào bàn, kéo ghế ngồi bên cạnh hắn. Marta để đĩa xúp trước mặt Tomek.
Thằng nhỏ thần người nhìn đĩa xúp, rồi lại ngẩng nhìn hắn như chờ đợi. Không thấy hắn phản ứng gì, nó lẳng lặng đứng dậy mở cửa nhà vệ sinh, mắt ngấn nước.
Marta thì thào:
-Nó muốn anh xúc cho, như ngày trước Việt vẫn làm.
Hắn gật đầu, chợt hiểu và đứng dậy. Đứng nép trong góc toilet, thằng bé gục đầu khóc không thành tiếng. Người nó run bần bật, mắt đỏ hoe, môi sưng vều, trên tay cầm chiếc khăn bông dày cộp. Hắn tiến tới, cúi xuống ôm lấy nó:
-Đừng khóc nữa! Quay lại bàn ăn đi, bố sẽ xúc cho con!
Chính hắn cũng ngạc nhiên về những điều vừa nói. Dường như có cái gì lạ lắm, vô cùng ấm áp đang từ góc tối thẳm sâu lan toả khắp cơ thể. Cả người hắn chùng xuống. Đôi cánh tay lực lưỡng mềm mại quấn quanh người thằng bé nhấc bổng nó ra khỏi toilet như nâng một bông hoa tuyết mong manh. Hắn lấy thìa bón súp cho Tomek. Thằng bé cố há to mồm nhai trệu trạo những lát bắp cải đã được ninh nhừ. Hắn bẻ mẩu bánh mì đen cho vào mồm nó. Tomek gạt tay, bặm môi, lắc đầu. Đôi mắt nó ngước lên, ngỡ ngàng. Marta đứng cạnh lặng lẽ, căng thẳng theo dõi hai người và đợi
2hi.us