Truyện Ngắn - Lễ Hội Ăn Mày

Truyện Ngắn - Lễ Hội Ăn Mày

Tác giả: Sưu Tầm

Truyện Ngắn - Lễ Hội Ăn Mày

1. Người đàn bà choãi hai chân ra sau, nhúi đầu xuống, tay trái vẫn ôm chặt đứa con nhỏ giữ cho mũi mồm nó vẫn trồi trên mặt nước, tay phải khoát một nửa vòng tròn, rướn tới… Cùng lúc với nhịp lấy đà theo để bơi tiếp, chân chị bỗng chạm phải đất. Chị mừng rỡ kêu "ôi" một tiếng khẽ, đạp dấn chân kia xuống, đứng thẳng người dậy, lội… Nước ngang cổ, ngang ngực rồi ngang lưng quần… Thế là thoát, là đã sắp vào bờ, cái bờ mà gần suốt đêm chị vừa mong đợi lại vừa lo lắng không biết sẽ phải làm gì khi bước cái bước đầu tiên lên đó. Chị vỗ vỗ bàn tay ướt nhèm vào má đứa con gái nhỏ; cô bé lắc lắc đầu, ngọ ngoạy cổ, làm nước trên người văng ra hai bên thành những tia mát lạnh bắn vào lườn lưng bên trái chị. Chị mỉm cười lẩm bẩm: "Rõ là con nhà đầm phá!". Vậy là hai mẹ con chị đã hơn một nửa đêm dầm mình trong nước. Chị thì không nói làm gì, đã bao năm sống trên mặt phá bao la, chị có thể lặn cả ngày dưới đáy đầm cũng như ở trên cạn, chỉ ngại đứa con nhỏ mang theo. Khi quyết định bỏ trốn vào bờ, rời bỏ vĩnh viễn vạn thuyền, chị đã tính để con gái nhỏ ở lại. Song nó còn bú, lại có đứa con trai đầu lên năm ở lại với cha nói rồi. Nó sẽ lớn lên, sẽ thành một chàng trai đầm phá giỏi giang để tiếp nối cái nghề vạn chài truyền thống của cha ông nó. Đó là của quý nhất chị đã để lại cho chồng, trả cái tình nghĩa vợ chồng ăn ở với nhau lâu nay, mặc dầu cái tình nghĩa đó lúc đầu chỉ là sự ép buộc. Thôi, tôi đành phụ anh, chắc anh cũng hiểu cho tôi, tôi còn cha mẹ, quê hương làng xóm nơi chôn nhau cắt rốn, đã bao năm rồi tôi chẳng biết ai còn ai mất! Cuộc đời tôi không phải là cuộc đời trên đầm phá xa lạ, hãi hùng này. Lạy Trời, lạy Phật, lạy ông Hà Bá, lạy bà Thủy Vương phù hộ cho vạn thuyền anh, phù hộ cho anh chóng lấy được vợ khác…
Chị vụt nhớ lại hoàn cảnh của mình. Đã lâu lắm rồi, chị gần như quên lãng, giờ đây hiện về mồn một trong đầu. Ngày đó, một buổi chiều tối, sau bao ngày lang thang kiếm ăn, cha mẹ chị dắt chị vào nghỉ ở cái lều tranh góc chợ bên đường. Bấy giờ là năm đói kém, làng quê chị ở bên bờ sông Hoàng Long đói xơ xác, bà con thất tán người lên tận rừng sâu, người xuống tới biển rộng để tìm nguồn sinh sống. Nhiều gia đình bồng bế nhau, bị gậy ra đi. Cứ đi, nơi nào có thể xin được là đi, không ai tính lấy đường về. Gia đình chị cũng trong tình cảnh bi thảm đó. Cứ đi… nhắm hướng nam mà đi, nơi nào có chợ búa là đến, kiếm miếng cho vào bụng đỡ đói, không còn nhận biết ra phương hướng nữa. May mà ông trời còn có ngày có đêm, buổi sáng mặt trời mọc, buổi chiều mặt trời lặn. Cứ đi… đi cho đến ngày hôm đó. Buổi chiều chị được ăn một nắm xôi to dễ bằng quả dừa điếc và mấy con tôm rim, do nhà chủ nọ có kỳ cúng giỗ mà cha mẹ chị dắt chị tình cờ bước đúng vào ngõ. Đó gần như "bữa tiệc" chia tay mãi mãi của chị với những người ruột thịt của mình.
Đêm càng lúc càng sâu, càng vắng vẻ. Cả nhà chị chìm vào trong giấc ngủ say sưa trên nền lều chợ mát lạnh. Gió từ đầm xa hiu hiu thổi vào như ru giấc ngủ thêm ngọt thêm muồi. Chị thấy mẹ nhẹ nhàng nâng đầu chị lên, đút cho chị ăn như hồi mới lên hai lên ba. Ôi mẹ, con đã no căng bụng rồi đây này! Mẹ nói cơm thương chứ ai thương, hãy cố mà ăn con ạ, no rồi cũng cứ ăn thêm, bù vào những lúc không có cả một cái dây khoai để nhai cho khỏi buồn cái chân răng. Mẹ ấn củ khoai luộc ép chị ăn thêm nữa. Củ khoai bùi quá, làm cổ họng chị đặc cứng, tắc nghẹn, muốn kêu mà không kêu được. Rồi bỗng mẹ buông tay. Chị thấy như được ai bồng bế, người nhẹ hẫng rồi bay đi, lượn lờ như con bướm trong vườn cải nhà chị hồi nào. Con bướm có đôi cánh lốm đốm vàng xanh cứ dập dềnh rồi chao chát, long bong, rồi phầm phập, phầm phập rất lạ. Con bướm cứ chúi đầu xuống ao, hai cánh giẫy run, cố cất lên nhưng cứ rũ xuống dần, lướt thướt trườn đi một cách tuyệt vọng…
Chị giật mình thức giấc, hoảng hốt ngồi nhổm dậy, hai tay bưng lấy mặt, chưa biết chuyện gì đã xảy ra vừa rồi.
- Đừng sợ! Đừng sợ nghe con!
Tiếng ồm ồm đùng đục của ai thế? Tiếng cha sao nghe lạ lùng! Mẹ, mẹ đâu rồi? Chị khẽ lách các ngón, nhìn qua kẽ tay. Trời ôi! Chị bỏ phắt hai tay xuống, rên rỉ, ngơ ngác, hãi hùng nhìn quanh. Hai người đàn ông, một già, một trẻ đang ngồi trước mặt chị. Dáng họ cao lớn, vạm vỡ, có vẻ bặm trợn nhưng nét mặt thì hiền khô, trên môi anh chàng trẻ còn in một nụ cười nữa. Họ đều cởi trần, quần đùi, da nâu bóng…
- Trời hỡi! Đây là đâu thế này?
Họ không trả lời. Chị nhìn quanh, nhận biết mình đang ngồi trên một chiếc thuyền đã được neo lại giữa dòng, bập bềnh bập bềnh phồng lên xọp xuống theo hơi thở của sóng. Trên đầu là trời cao, chung quanh bốn bề là nước. Thăm thẳm… mịt mù…
Chị òa khóc. Hai người đàn ông im lặng. Họ không hề làm gì chị cả, cũng không dỗ chị, kệ cho chị khóc, hình như họ cho là cần phải như thế. Ông già đưa mắt cho người con trai. Chị rú lên một tiếng. "Họ sắp làm thịt mình!". Anh con trai đứng lên, im lặng chui vào khoang. Chị nhắm mắt lại, nghĩ nhanh: "Mình tới số rồi, trời ơi là trời!". Chị đợi một nhát dao hay một cú búa, hay một cái gì tương tự như thế. Có tiếng lẹt xẹt trước mặt chị. Chị mở mắt ra, một bát cơm đầy tú hụ đặt trên một khúc cá kho khoanh tròn hình quả trứng to được đẩy tới.
- Ăn đi! Ăn đi kẻo đói con! - Ông già lại ồm ồm lên tiếng, giọng trầm mà nghe nhẹ nhõm. Chị vụt hiểu tất cả. Chị đứng bật dậy, mặt ráo hoảnh, ương bướng:
- Các người bắt tôi về đây làm gì, hả?
Ông già sắc mặt không hề thay đổi nhưng giọng điệu thì thay đổi, dỗ dành:
- Không làm chi đâu con ơi! Bắt con về làm dâu thôi mà! Con sẽ là vợ thằng trai lão đó, con nhé?
Đưa hai tay chống nạnh, chị nhìn cha con ông già, mắt long sòng sọc:
- Các người có thả tôi ra không hả?
Chàng trai cười rất tươi, rủ rỉ:
- Không thả! Mà có thả em biết đường nào mà đi, làm chi mà sống! Ở đây, trên trời dưới nước thế này, em có thấy không?
Tiếng "em" của chàng trai làm chị thoắt dịu lại:
- Tôi còn nhỏ, tôi không lấy anh đâu!
Chàng trai lại cười, nụ cười lần này thì như nụ cười của ông chủ, thỏa mãn và đầy tự tin:
- Thì tôi đợi em lớn đã mà! Có gấp gáp chi!
Chị gần như ngãngồi xuống lòng thuyền, hai tay buông thõng, thở dài não nuột. Chị không muốn khóc nữa mà nước mắt cứ đầm đìa. Chị biết thế là cuộc đời chị đã được quyết định do những người xa lạ và hoang dã giữa vời phá bao la này. Chị đứng vụt, kêu xé lên một tiếng, nhào người xuống nước. Chàng trai nhanh như chim cắt, kịp túm tay chị lôi lại, đẩy chị vào trong khoang.
Bấy giờ chị mới là một con bé mười ba tuổi…

2. Gần như kiệt sức, chị nằm lăn ra bờ đầm hoang, mắt ngước nhìn bầu trời đang sền sệt như màu trứng cá. Đứa con nhỏ đang quờ tay tìm vú. Chị ấp con vào người, xốc cho nó bò bên bụng. Con bé chẳng khó khăn gì để trườn một cái rồi ngoạm lấy vú mẹ. Chị nghe nhồn nhột, giật mình sực nhớ là mình trên để trần. Đàn bà vùng đầm phá chuyên sống trên mặt nước vẫn thường như vậy, không mấy khi mặc yếm áo, để khỏi vướng víu khi chài lưới cá tôm, trừ khi phải lên bờ đi chợ mua gạo, mua dầu… Chị tự trách mình lúc đêm gấp quá và cũng hoảng quá, quên khuấy mất. Vạn thuyền nhà chị ngày hôm đó trúng mẻ lưới cá bầu. Người chồng tự thưởng một chầu rượu.

Bạn nhậu là cô vợ trẻ và cậu con trai nhỏ. Thật ra chỉ một mình anh ta uống, vợ con chỉ ngồi cho vui mâm rượu mà thôi. Họ ngồi với nhau đến khuya thì anh chồng say lê lết, nằm xoài ngáy như sấm. Chị dọn dẹp xong, nhìn chồng, nhìn nước. Ý định trốn đi vụt đến. Thời cơ có một không hai đây rồi! Chị đã tự liệu sức mình, cái sức mà chồng chị không thể lường trước được, hoặc đã tin cậy nên không muốn lường. Không có người đàn bà nào, dù đàn bà đẻ trên đầm phá, lại có thể bơi từ giữa phá vào bờ, xa có đến sáu bảy cây số!
Nằm nghỉ một lát lại sức, chị xốc con ngồi dậy, nhìn quanh để xác định phương hướng. Đây là trảng cát, vậy bên kia là bờ biển, dọc sát biển là làng. Chị nhắm hướng trước mặt, chạy gằn. Chị cần tìm một cái gì để che thân trước khi gặp người thứ nhất trên cạn. Đứa con gái đã bú no, ngủ ngặt nghẽo trên tay, hơi thở của bé phả âm ấm chỗ xương bả vai chị. Có tiếng gà gáy xa xa. Trời xem chừng đã hơi loang loãng, sắp sáng rồi. Chị chạy gấp thêm, nhắm cái vệt mờ mờ xám xám của xóm làng đằng xa mà băng tới. Đôi vú trần trẻ trung của chị nảy tưng tưng. Trước mắt chị là một chiếc cầu và phía bên kia, chị đã nhìn rõ ánh đèn le lói trong ngôi nhà ai đó khuất lấp qua một khu vườn rậm rạp cau dừa. Chị đoán sau xóm này chắc là chợ làng. Ở cái chợ này, ngày mai chị sẽ kiếm vài thứ cần thiết và đi tiếp, đi tiếp. Lần hồi, hỏi han… thế nào cũng có ngày chị sẽ về đến quê hương làng xóm, gặp lại cha mẹ, bà con xóm giềng của chị. Bố mẹ của chị ngày đó mất chị, chắc họ cũng đã quay về, lòng dạ đâu mà đi tiếp nữa, chị chắc chắn như thế…
Một vật ngáng làm chị bổ ngửa người ra sau, suýt nữa thì hất đứa con gái xuống đất. Chị định thần nhìn. Thì ra mải suy nghĩ chị đã không kịp thấy những thanh chắn cửa một khu vườn. May mà chúng chỉ là những thanh tre tròn, không có gai mấu gì. Vừa lúc chị đứng dậy phủi bụi cho con nhỏ thì một giọng đàn bà cất lên thong thả, thản nhiên:
- Ai đó? Đi đâu sớm thế?
Chị luống cuống chưa biết nói gì. Từ trong nhà, người vừa hỏi đã xách cây đèn bão nhanh nhẹn đi ra. Chị co rúm người lại, ngồi nép vào bóng tối của bụi chuối. Ánh đèn đã soi rõ mặt chị. Người vừa hỏi là một bà già chừng sáu mươi. Thấy hai mẹ con chị trần như nhộng, lại run lên vì sợ hãi, nhìn khuôn mặt còn quá trẻ của chị không có vẻ gì dối gian, bà bỗng động lòng hỏi:
- Chị ở đâu đến đây? Ai đuổi bắt chị hả? - Bà nhìn đứa bé gái bụ bẫm - Con của chị đó à?
- Dạ thưa bà… thưa bà…
- Chị đừng sợ, nói đi nào! À mà khoan, hãy vào nhà cái đã. Cháu nhỏ đã lạnh run cầm cập lên rồi kia kìa. Vào nhà, tôi lấy áo quần cho mà mặc!
Linh tính cho chị biết rằng chị đã gặp may. Chị như bị hút theo bà già. Bà mở toang cánh cửa khép hờ. Đặt cây đèn bão xuống góc nhà, bà vặn to ngọn đèn tọa đăng đặt trên sập. Ánh sáng lan tỏa khắp gian nhà. Bà đi vào gian trong. Chốc sau bà mang ra một mớ áo quần, nói như ra lệnh:
- Chị mặc vào ngay kẻo lạnh. Ra sau hè mà thay!
Chị bàng hoàng như trong giấc mộng, rùng mình như đang sống trước cảnh bụt hiện. Bà già đứng đó, mỉm một nụ cười thương cảm nhìn hai mẹ con chị giờ đã áo quần tinh tươm, mái tóc đốm bạc của bà phơ phất, phơ phất…
Tự bao giờ, có lẽ lúc mẹ con chị thay áo sau hè, một mâm cơm có cá kho, dưa chua đã đặt bên phản dưới. Bà già đến ngồi lên sập, chân co chân duỗi, nhai trầu chóp chép:
- Cơm khi tối còn lại đó, nguội cả rồi, nhưng tạm ăn đi cho đỡ đói. Ăn có sữa cho cháu nó bú. Chuyện chi nói sau. Trời sắp sáng rồi đó!
Bây giờ chị mới thấy bụng cồn cào ghê gớm. Con bé chị gần như suốt đêm ngâm mình dưới nước, giờ được mặc ấm liền chuồi khỏi tay chị lăn ra ngủ, đầu ngoẹo về một bên, hai tay khuỳnh vuông góc, hai chân chạng ra, ống hơi khép vào, nom như con ếch đang bơi…
- Cha cha. Con nhỏ ngủ "dễ ghét" chưa? - Bà nắc nỏm.
- Được mấy tháng rồi?
- Dạ thưa bà, cháu được chín tháng rồi ạ.
Chị nhìn bà. Trong thoáng chốc, chị tưởng trước mặt mình là mẹ. Mà phải, giờ đây nếu mẹ còn sống, chắc mẹ cũng bằng ngần ấy tuổi như bà. Ôi mẹ ôi…! Nước mắt chị lã chã rơi xuống bát cơm. Chị vừa ăn vừa kể lại…
Trời sáng rõ lúc nào không ai hay. Bà già khẽ thở dài, thõng hai chân xuống quờ tìm dép, ngoảnh mặt vào bên trong gọi to:
- Quý! Quý! Dậy con! Dậy rửa mặt, ăn uống rồi đi học kẻo trễ giờ con!
Chị luống cuống, ngại ngùng đứng lên. Bà già nói:
- Chị cứ nằm ngủ đi một chặp cho lại sức. Con Quý là đứa con gái út của tôi, đang học lớp nhì trường tổng. Nhà chỉ có hai mẹ con. Có thằng anh nó nữa, nhưng vắng nhà, đang học trên tỉnh, thỉnh thoảng mới về thăm. Thôi nằm ngủ đi!
- Dạ thưa bà, cháu không ngủ. Cảm ơn bà đã giúp đỡ mẹ con cháu. Giờ xin phép bà cho mẹ con cháu đi…
- Đi đâu?
- Dạ thưa, đi…
Bà già nhíu trán, im lặng một lúc rồi thủ thỉ tâm sự:
- Ông nhà tôi mới mất năm ngoái, nhà giờ đây neo đơn lắm, vắng vẻ lắm. Tình cảnh của chị nghe thật thảm thương, đường ra Bắc lại xa xăm mù mịt, mẹ con chị thân gái dặm trường, làm sao đi tới nơi về tới chốn cho được yên bình? Tôi nói thế này coi chị nghe có được không: giờ mẹ con chị cứở lại đây với tôi, giúp tôi coi ngó việc trong nhà ngoài vườn, chờ lúc nào thuận tiện, chắc ăn, để xem đường sá xe đò ra sao đã rồi hãy lên đường. Tôi coi chị như con, bé gái nhỏ như cháu…
Chị ngẩn người, nghe có cái gì chẹn ngang cổ họng, cứ nghẹn ngào nhìn chăm chắm vào bà già mà không nói được câu nào. Không ngờ câu chuyện lại xoay sang hướng này, cái hướng mà chị chưa bao giờ nghĩ tới. Số phận của chị ông trời đã định như thế này chăng? Ôi bà ôi…

3. Truyến trở về nhà khi trời vừa chạng vạng. Anh chuyền va ly qua tay trái, lấy tay phải nhẹ nhàng đẩy các ống tre then cài vườn, bước vào.
Trời vừa mưa giông lúc chiều, những giọt nước còn đọng trên các sợi dây thép chăng làm dây phơi giăng hàng long lanh như những dây cườm. Truyến nhìn quanh, bỗng thấy có điều gì lạ vương vấn đâu đây. Những vệ lan tóc tiên hai bên sân dường như được vun vén lại, cả những sợi cỏ râu mèo mọc len vào các gốc của chúng cũng được nhổ sạch sẽ. Bờ chè tàu làm hàng rào ngăn cách nhà với vườn cũng được cắt xén bằng bặn và phẳng phiu như có thể nằm lên trên được. Cái lu đựng nước đầu hè kia hình như cũng được bắt thêm một cái máng nhỏ bằng những chiếc mo cau chằm rất khéo đặt vát vào miệng, để hứng được nhiều nước mưa từ hàng giọt tranh chảy xuống. Còn đằng này, cạnh cửa sổ nơi anh vẫn kê chiếc bàn ngồi học thì mọc lên ở đó từ bao giờ một khóm dạ hương đang kỳ lấm tấm…
Một giọng hát khe khẽ cất lên khiến Truyến giật mình:
Ờ… hờ hơ… ngó lên hòn Kẽm đá dừng
Thương cha nhớ mẹ quá chừng bạn ơi!
Ơ… hờ… hờ…
Anh lắng nghe và lấy làm lạ rằng sao cô em gái nhỏ của mình mới đó mà đã hát được giọng người lớn và đổi âm sắc đến thế. Anh hèm một tiếng, cất giọng gọi:
- Mẹ ơi!
Tiếng hát ngưng bặt. Mẹ anh bước ra, tay bồng đứa con gái nhỏ:
- Con đã về đó hả Truyến? Nghỉ hè rồi ư?
- Dạ. Ủa cháu bé con ai thế mẹ?
- Ờ ờ - Bà mẹ vỗ vỗ vào má đứa bé, nựng - Cháu bà đây mà! Cháu ngoại cưng của bà đây!
Truyến đặt va ly xuống sập, trố mắt ngạc nhiên nhìn mẹ, nhưng lại hỏi chuyện khác:
- Quý đi đâu hở mẹ?
- Nó đi qua chơi với con bạn bên xóm. Nói để mượn sách đọc, dặn nhà đừng chờ cơm.
- Khi nãy ai hát thế

mẹ?
Bà mẹ gọi với xuống nhà dưới:
- Đào ơi! Lên đây! Anh con đã về này!
Một khuôn mặt hiện ra cùng với vòng tay lễ phép khoanh lại trước bụng:
- Dạ thưa cậu. Cậu mới về nghỉ hè!
Người con gái da ngăm ngăm, vẻ mặn mà in rõ trên cánh môi hơi dầy và đôi mắt mở ra tròn to màu nâu cháy vừa chân chất lại vừa như chứa đựng điều gì bí ẩn, làm Truyến bỗng cảm thấy nửa như yên ổn nửa như hoang mang. Anh không biết nói gì, chỉ gật đầu nhẹ để đáp lễ, nhìn mẹ như chờ đợi sự giải thích.
Bà mẹ mỉm cười:
- Em Đào người ngoài Bắc, lỡ vận sa cơ, mẹ mới nhận làm con nuôi hồi đầu năm. Thôi nói chuyện sau, bây giờ xuống dọn cơm ăn cái đã!
Đào xuống bếp. Lát sau cô bưng mâm cơm lên:
- Mời mẹ và cậu xơi cơm! Con để phần cho cô Quý rồi ạ.
- Ngồi đây ăn cơm luôn đi con. Cậu, cậu cái gì. Gọi bằng anh nghe chưa?
- Dạ, xin phép mẹ, con còn cháu nhỏ, sợ nó quấy. Để con chờ chút, ăn sau cùng cô Quý cũng được ạ!
Truyến rửa ráy, thay quần áo xong, đi ra.
Hai mẹ con ngồi vào mâm.
Suốt từ lúc về nhà đến giờ, Truyến không sao xua được cái cảm giác lạ lùng là vừa thanh thản lại vừa phấp phỏng như sắp có điều gì xảy ra. Người thiếu phụ trẻ nọ có mặt trong nhà anh mà mẹ anh - qua lời kể lại cùng với thái độ đối xử của bà - đã như là một sự hiển nhiên, đã xảy ra rồi, dù anh có muốn hay không cũng vậy. Từ bé đến giờ, và có lẽ mãi mãi về sau - chừng nào mẹ anh còn sống - anh vẫn có thói quen nhìn nhận những việc làm của mẹ đều xác đáng, đều như là của chính mình, phải vậy chứ không thể khác. Vậy thì điều gì sẽ xảy ra sắp tới, ít nhất là đối với anh, trong kỳ nghỉ hè này?
Truyến hình dung lại mọi sự việc. Anh không thể nào tưởng tượng cô gái mới hai mươi mốt tuổi nọ đã là mẹ của hai đứa con, là vợ của dân chài đầm phá mà người trong vùng anh vẫn thường gọi một một cách vừa sợ hãi vừa khinh khi là "bọn mọi đầm". Dĩ nhiên, gia đình anh là gia đình nho học, biết tôn trọng và thương yêu con người; anh lại là dân tây học, anh không bao giờ chấp nhận cách đánh giá đó. Trường hợp này, trường hợp Đào, liệu bà con hàng xóm có nghĩ rằng mẹ anh đã mua chuộc người con gái vạn đầm kia để biến cô thành người làm công không? Điều này khó xảy ra vì chuyện chạy trốn của cô không ai hay biết. Và tấm lòng nhân hậu của mẹ anh, của gia đình anh, thì trong làng không ai nghi ngờ. Rồi về phần cô gái, một ngày nào đó phải ra đi, lúc bấy giờ tình cảm của cô và những người trong gia đình anh đã sâu nặng, liệu mọi người trong cuộc có đủ sức để thu xếp làm sao cho trọn nghĩa vẹn tình…?
Bao nhiêu ý nghĩ dồn dập làm Truyến trằn trọc, không sao ngủ được. Cô em út đi chơi với bạn học xóm bên về khuya, đang thủ thỉ rúc rích chuyện gì đó với mẹ con Đào nhà dưới làm cho lòng anh thêm xốn xang, bứt rứt. Anh ngồi dậy, đi ra vườn. Mảnh trăng non thượng tuần lai láng, trải một lớp ánh sáng như màng tơ màu vàng chanh trên cây lá…

4. Ngày tháng qua nhanh.
Truyến trở lại thành phố với những dự cảm ngọt ngào êm ái. Chỉ còn năm học cuối cùng nữa thôi, anh sẽ tốt nghiệp tú tài toàn phần.
Ba tháng hè tưởng như dài hóa ra quá ngắn. Khác với các kỳ trước, kỳ này Truyến không nhấp nhỏm về ngày lên trường sớm với bạn bè, với đèn sách. Anh cũng tự hỏi lòng mình vì sao. Câu trả lời vừa mơ hồ vừa rõ rệt thoáng qua trong óc làm anh mỉm cười bâng quơ. Anh bước lên đò đúng lúc đò đã khẳm, người lái đò nhẹ nhàng xô ra, nhảy lên. Gọi là đò ngang nhưng dòng sông ở đây rộng ngút mắt. Đó chỉ là một trong những nơi eo thắt lại của cả một dải đầm phá chạy dài từ cửa Thuận đến cửa Tư có đến dăm chục cây số, và chiều rộng của nó thì có nơi phình ra mênh mông như biển cả, chẳng biết nơi đâu là bến là bờ. Đây là vùng giang sơn riêng của các vạn thuyền quanh năm sống trên các mặt nước, với bao nhiều chuyện huyền bí, bao nhiêu tập tục lạ lùng của người dân quanh năm ở trần ở lổ như con cá con tôm, kể cả đàn bà con gái. Đây cũng là nơi mà từ xa xưa đã là nỗi kinh hãi cho những ai mới lần đầu đặt chân tới hay phảivượt qua:
Thương em anh cũng muốn vô
Sợ truông nhà Hồ sợ phá Tam Giang
Câu ca dao dân gian đó kể từ lúc xuất hiện cho đến bây giờ và mãi mãi về sau, luôn luôn được chắp nối phần tiếp theo cho hợp với tình cảnh từng lúc từng nơi, từng con người từng số phận…
Ngồi trên đò, Truyến miên man suy nghĩ. Chuyện dân đầm phá đi bắt vợ, anh đã từng nghe kể, tuy chưa được nhỡn tiền, nhưng cũng như bao nhiêu người khác sống trên cạn, anh tin là có thật. Bởi nếu không, thì trai vạn đầm chỉ có thể chết già mà thôi, gái trên bờ không ai dám lấy họ cả. Rằng ban ngày họ rời thuyền, lảng vảng các chợ búa quán lều, dò la đàn bà con gái thất cơ lỡ vận, ăn mày, ăn xin để dễ nhập bọn, dễ hòa đồng. Rồi đêm tới họ vác bao tải đi, nhét một củ khoai hoặc cục cơm vào mồm cô gái định bắt, trùm bao vác về, chèo thuyền ra giữa vời phá bao la. Người bị bắt về, bất kể lớn hay nhỏ đều trở thành vợ của họ, còn nhỏ thì họ muôi cho lớn; dạy cho thành người đầm phá chính hiệu, đợi đến ngày nở nang có thể làm vợ được…
Người dân đầm phá tin rằng Hà Bá đã cho phép họ làm như vậy, cho họ được cái quyền tạo ra người nối dõi, gìn giữ nghề truyền thống của cha ông họ, tiếp nối giòng máu riêng của dân đầm phá.
Truyến thoáng mỉm cười nhớ lại. Một hôm đang ngồi đọc sách Truyến thấy cô gái cứ lấp ló, thập thò, chốc lại vén màn nhìn ra, chốc lại đi vòng ra sau cửa sổ cúi xuống làm cái gì đó như nhổ một cây cỏ chẳng hạn, nhưng mắt thì liếc trộm anh. Anh thấy hơi khó chịu, gấp sách lại, cầm bút viết vài câu bâng quơ, bất chợt, gọi là cho có việc làm và cũng để có một khoảng lặng trong đầu nghĩ xem chuyện gì đang đến đây. Một cái chạm lướt đằng vai sau làm Truyến hơi giật mình quay lại, cái chạm mà anh biết chắc không phải là bàn tay mà chỉ là tà áo hoặc cái gì nhẹ mềm tương tự. Anh hơi quắc mắt:
- Em làm gì vậy hả Đào?
Đào như bị bắt quả tang, đứng khựng hơi cúi mặt, đôi má bừng đỏ, tay mân mê chéo áo.
- Dạ… Dạ thưa!
- Chuyện gì thế, em nói đi!
Đào ngẩng nhìn lên, nói một hơi như sợ chậm một giây thì không nói nổi:
- Anh Truyến! Anh dạy em học chữ với. Đời em khổ cực dốt nát lắm anh ơi!
Truyến như bị bước hụt. Anh nhìn cô gái đứng trước mặt như một kẻ chịu tội, vẻ khẩn cầu van xin toát ra từ dáng điệu chưa quá tuổi ngây thơ làm anh thương cảm quá đỗi. Đã hơn một tháng từ ngày gặp gỡ, đây là lần đầu tiên anh nhìn kỹ cô em nuôi. Trời! Thời gian nhanh như vậy ư? Da dẻ cô không còn ngăm ngăm nữa mà nó mịn màng hẳn lên, cái màu hồng pha chút nâu thoáng làm cho khuôn mặt có những đường nét hơi đầy đầy của má và môi bỗng trở nên sang trọng một cách xa vời. Bộ quần áo mà mẹ anh sắm cho cô bằng lụa màu trái cây ôm khít lấy tấm thân với bờ vai tròn trịa và bộ ngực như ngực thiếu nữ con nhà lành, thì rõ ràng thời gian và cuộc sống bao năm chèo kéo trên mặt đầm với một ông chồng và hai đứa con, chưa hề chạm tới được.
Truyến hơi sững sờ, giọng dịu hẳn:
- Em muốn học chữ à? Em không hổ ngươi đấy chứ, Đào?
- Dạ không! Anh dạy cho em nhé, anh…?
- Vậy thì được. Ngồi xuống đây! Nhưng trưa nay mẹ về, em phải thưa lại với mẹ và xin phép mẹ.
- Dạ.
Cô gái sáng dạ một cách cũng kỳ lạ như chính quãng đời đã trải qua của cô. Gần hai tháng hè

còn lại, Truyến đã biến Đào thành một cô gái đọc thông viết thạo, biết làm phép tính thuần thục. Bây giờ Đào có thể đọc truyện cho mẹ nghe mỗi khi rảnh rỗi, các cuốn truyện ấy chất một rương đầy của Truyến gom góp từ hồi còn học tiểu học ở trường tổng. Những ngày chưa lên tỉnh học, công việc ấy là của Truyến. Giờ đây là Đào thay thế…

5. Ba năm sau khi Đào bị bắt về vạn thuyền.
Cô bé ngày nào còn đuồn đuỗn như con cá kìm nay đã trở thành một cô thiếu nữ dậy thì, đầy đặn và mỡ màng như con cá đối.
Ông già chăm bẵm Đào chẳng khác gì con đẻ. Vạn thuyền không phải lúc nào cũng đầy đủ, có ngày kiếm được mớ cá, mớ tôm để đổi lấy gạo, củi cũng cực nhọc vất vả. Song ông già không bao giờ để cô con dâu tương lại phải thiếu đói. Mọi thứ ngọn vật hiếm của đầm phá, vạn khác không kiếm ra thì vạn ông vẫn tìm được. Cá dìa hoa thịt dẻo bùi như hoài sơn tươi, thơm như trầm. Tôm sú rằn con nần nẫn bằng cổ tay, ăn một con no suốt buổi. Cá buôi lườn béo như thịt mỡ, béo mà không ngán, bụng no rồi mà miệng vẫn thèm… Tất cả những thứ đó, ông già không bao giờ kho nấu, hoặc chiên rán lôi thôi, mà bắt dưới đầm lên đang giẫy đành đạch, liền thả vào nồi nước sôi sẵn trên bếp. Muối ớt là thức chấm duy nhất. Cái món nước luộc cá tôm tươi rói đó ngọt lừ, thơm lừng, bổ hết chỗ nói, húp một bát, người đang sốt gây gây lập tức tỉnh ra, nhẹ thênh. Ông già nói những thứ này là của Thần Phá ban phát, thần diệu hơn cả thuốc tiên. Ông già ép cô con dâu nhỏ ăn ngày ngày.
Đào mười sáu tuổi đã nở nang gấp mấy con gái cùng lứa trên bộ, đôi vú suốt ngày để trần rám màu bồ quân, câng câng trên ngực, hai cái núm hồng hồng cứ chóc lên như thách thức cả trời đất, sông đầm.
Anh con trai ông già suốt ba năm không lúc nào tỏ ra thô lỗ với cô gái, bỗng một hôm nhìn xoáy vào ngực cô, anh ta không chịu nổi, cứ đấm thụi tay, chân vào ván thuyền huỳnh huỵch, côm cốp. Anh ta như bị lửa đốt, toàn thân rừng rực cháy cả tim gan phổi phèo…
Ông già nom thấy, hô:
- Được rồi! Bày lễ cúng Bà Thủy!
Nghe lệnh cha, người con trai hú lên một tiếng sung sướng.
Lễ hợp cẩn lập tức được tiến hành. Một thau nước có hai con cá được bưng ra, một chai rượu đặt cạnh. Ông già bày bát hương đầu mũi thuyền, chọn hai cây hương to và một nạm hương nhỏ. Thắp hương khấn vái xong, ông già lại hô:
- Xuống đầm!
Đôi trai gái đến nhót từ trong thau ra mỗi người một con cá ngậm ngang mồm, trút bỏ áo quần, trần truồng dắt tay nhau xuống nước. Hai con cá ấy là lễ vật dâng Thần Đầm. Chúng sẽ chứng kiến cái giờ phút thiêng liêng hòa nhập làm một của đôi vợ chồng mới cưới, ngay trong lòng nước…
Cuộc giao phối xong, đôi trai gái mới được há miệng. Hai chú cá liền bơi đi. Thế là kết thúc buổi tân hôn.
Ông già nhìn con trai và con dâu từ dưới đầm lên, ướt giầm giề. Cô con dâu từ nỗi kinh hoàng ban đầu giờ đã hết sợ. Cô xấu hổ, một tay che một tay khèo vội chiếc quần mặc vào. Còn anh con trai thìrạng rỡ, nước từ tóc tai chảy tong tong xuống ướt cả một vạt thuyền, mặt mày cứ đờ đẫn ra.
Ông già gật gật đầu mãn nguyện. Ông vớ lấy chai rượu cúng, ngửa cổ dốc ừng ực. Hết chai, ông nằm xoài ra sạp.
Và từ đó, ông nằm luôn. Mấy ngày sau, ông mất.
Trước khi đi, ông gọi đôi vợ chồng đến:
- Cha đã già lắm rồi, việc đánh bủa trên đầm cũng đã hết hơi, chết là được! Hai con phải lo mà làm ăn, sinh con đẻ cái, gìn giữ vạn thuyền, thờ cúng Thần Phá cho phải, cho đúng, nghe!
Hai vợ chồng chôn cất cha già tử tế. Người chồng trở thành chủ vạn thuyền từ đó. Anh đã ngoài ba mươi nhưng sức vóc, lực lưỡng, chài lưới bơi lặn có tiếng trong vùng. Và cũng như cha anh, anh không bao giờ chịu thua bất cứ người đàn ông đầm phá nào. Anh hiền như sợi rong đầm, chiều cô vợ trẻ như chiều vong. Đẻ xong thằng trai đầu, anh nói với Đào:
- Em đẻ tiếp mấy thằng nữa, nghe!
Đào nguýt:
- Đẻ nhiều không đủ sức, rồi ốm đau bão gió, một bầy con lộn chộn như cua rạm, một mình anh chài lưới, nuôi sao nổi?
Anh chồng toe toét:
- Tôi nuôi được! Em chớ lo. Tôi khỏe như ông voi, tôi đánh bắt như con rái mà!
- Không được! Giờ em mới sinh, con còn non, anh không được…! Khi nào em bảo, anh mới…
- Ờ ờ phải! Thôi, tôi nghe em rồi. Đừng buồn đừng lo nghe, em!


6. Chợ Cồn là một khoảnh cát rộng, bụi cây lúp xúp, mô đất rải rác. Gọi là chợ nhưng người ta không họp ở đây mà họp ở nơi khác. Nơi đó mới thực sự là ngôi chợ của làng, nơi hàng ngày người dân trong vùng vẫn đến mua bán, trao đổi các thứ. Còn chợ Cồn là nơi để mỗi năm chỉ họp một lần vào ngày mồng hai Tết. Những người được đến chợ Cồn vào ngày đó là những người ăn mày. Ngoài ra, không ai được đến đó. Bởi vậy, dân làng gọi ngày đó là ngày "lễ hội ăn mày" một cách trịnh trọng. Bất cứ ăn mày trong vùng hay từ đâu đến đều được dự lễ hội. Ai đến trước dự trước, ai đến sau dự sau, không ai phải chờ ai. Nhưng thường không ai đến sớm hơn hoặc muộn hơn giờ quy định. Đó là giờ Thìn. Thìn là rồng, dân làng tin rằng chọn giờ đó sẽ đem lại may mắn, cầu được ước thấy cho những người nghèo đói bất hạnh, phải lâm vào cảnh ăn mày ăn xin.
Từ tinh sương, các gia chủ trong làng, mỗi nhà một mâm cỗ, to nhỏ tùy theo hoàn cảnh và lòng thiện của từng nhà, bưng ra bày ở chợ Cồn, để ở đấy và về. Kèm theo mâm cỗ là những vật chúc phước khác - cũng tùy ý tùy tâm từng nhà - như pháo, câu đối viết trên giấy hồng điều, bộ bài thẻ ghi phúc lộc thọ hoặc phú quý an v.v… Ăn mày tứ xứ tối mồng một đã kéo về, tụ tập quanh chợ Cồn, nhưng chưa ai được vào, phải đợi giờ hành lễ. Hiệu lệnh bắt đầu do chủ lễ hội gióng lên. Chủ lễ do dân làng cử ra hàng năm, thường là một cụ già. Cụ già khăn áo đàng hoàng làm nhiệm vụ khấn vái thổ thần và gìn giữ trật tự suốt lễ hội.
Cụ già tay cầm chiêng, chiếc dùi đầu tròn bọc vải đỏ.
- Ù… ù… ù… bù rù… bù rù! Bù rù!!!
Một hồi chín tiếng chiêng vừa dứt. Lễ
2hi.us